Hôm nay,  

Giúp Thế Hệ Sau Đọc Sách Báo Tiếng Việt

18/07/202406:00:00(Xem: 1499)

bo-sach-vvnm 

Với bút hiệu Prudence Han Tranduc, tác giả đã có sách Anh ngữ "The Clan Divided," do một nhà xuất bản Mỹ tại New York ấn hành. Ông cũng là tác giả sách "Tiếng Việt Đáng Yêu." Trần Đức Hân sinh năm 1942 tại miền Bắc, di cư vào Nam. Từ những năm 60 học Văn khoa, dạy học, khóa 20 Thủ Đức, khóa 15 Kỵ Binh Thiết Giáp, bị thương, giải ngũ năm 1968, tốt nghiệp cử nhân Văn khoa, tiếp tục dạy học. Năm 1980, vượt biển, định cư tại Cộng Hòa Liên Bang Đức. Từ 2000, di dân sang Mỹ, học lại Anh văn từ ESL tới các lớp viết văn và hoàn tất được ba cuốn sách. Tác giả hiện là cư dân thành phố Westminster. Ông tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2016 và sau nhiều năm vắng bóng, nay ông trở lại với bài viết đầy tâm huyết về việc gìn giữ và lưu truyền tiếng Việt cho thế hệ trẻ.
 
*
 
Sách và Báo Chữ-Việt xuất bản ở nước ngoài rất nhiều. Riêng ở Mỹ, có vài trăm tác giả viết sách. Báo ngày có Việt Báo, Viễn Đông, và Người Việt. Báo tuần, báo tháng có trên chục tờ. Thêm vào còn có các Tạp San của Tôn giáo và hội đoàn. Rất nhiều nữa nhưng xin độc giả thông cảm cho sự ngắn gọn này.
 
 
TĐH đã vào Internet nêu câu hỏi: “Nguồn gốc Anh-ngữ ngoài những từ vựng của riêng mình, còn lấy thêm nguồn gốc từ các ngôn ngữ nào khác?” Câu trả lời là một ‘list” khá dài. Tác giả xin trích một số ngôn ngữ: Latin, French, German, Yiddish(?), Portugese, Italian, Spanish, Arabic, Russian, Swedish, Native American languages, Chinese, Korean, Japanese, ... Vietnamese. Từ mỗi ngôn ngữ, họ cho vài thí dụ.  Ngôn ngữ viết Alphabet- scripts thường giữ nguyên hoặc đổi khác chút ít; ngôn ngữ viết kiểu khác thì ghi âm lại bằng Alphabet-script của English. (Ví dụ tea của Chinese, tycoon của Japanese).              
 
Do các dữ kiện vị trí và lịch sử của nước Nam (Vietnam) chắc quý độc giả đồng ý với thực tế “Chữ Việt Tiếng Việt Còn thì Nước Việt Còn.”
 
Dữ Kiện Vị Trí: Nước Việt-Nam nằm ở vị trí huyết mạch tuyến đường thương mại cũng như chiến lược vùng Đông Nam Á.
 
Vài thí dụ về tuyến đường thương mại: Việt sử cho ta biết, khởi đầu từ năm 1533, các tàu buôn Portuguese, do Antonio Da Faria chỉ huy, có những lần đến Đà-Nẵng (Tourane) hay Hội-An (Faifo) ở trong Nam. Từ 1540 đến 1800, các thương thuyền của Portuguese, Spanish, Britain, France, và Nertherlands trên đường đi Macao nước China và Nazaki nước Japan, thường ghé vào Đà-Nẵng trong Nam hay Phố-Hiến (Hải-Phòng) ngoài Bắc.
 
Vài thí dụ về tuyến đường chiến lược: Điển hình là vị trí chiến lược Cam-Ranh Đà-Nẵng. (a) Trong chiến tranh Russo-Japanese ở thập niên 1900s, trong một trận hải chiến, khi hạm đội Nga yếu thế, họ vào bố trí ở Cam-Ranh Đà-Nẵng nên hạm đội Nhật không thắng được trận đó. (b) Khi Pháp chiếm VN, họ cũng khởi đầu 1858 từ eo biển này. (c) Trong Thế Chiến II, sau khi quân phiệt Nhật đã chiếm Korea và nhiều tỉnh miền đông China năm 1937; vài năm sau, họ tràn vào Việt Nam làm vị thế bàn đạp đánh chiếm các nước phía nam như Philippines, Singapore, Burma (Myanmar), vân vân. (4) Sau này, trong chiến tranh Việt Nam, đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đến Nam-Việt Nam năm 1965 cũng đổ bộ lên bãi biển này.
 
Dữ Kiện Lịch Sử: Trong quá khứ, nước Bắc (China) đã xâm chiếm nước Nam (Việt Nam) mấy lần.
 
(1) Từ 111 BC – AD 939 (1,049 năm; nếu trừ bớt 3 năm nhờ Hai Bà Trưng giành được chủ quyền năm AD 40 – 43 thì còn 1,046 năm.) Thời gian hơn một nghìn năm này, kẻ xâm lăng cai trị dân Việt rất khắc nghiệt như nô lệ và vơ vét những gì qúy giá chở về nước Bắc. Đặc biệt Mã-Viện (Phục-Ba) của nước Bắc đã gom gần hết các trống đồng của nước Nam, nấu chảy đúc thành Cột Đồng Trụ, khắc chữ Hán đe dọa: “Cột đồng chiết; Giao Chỉ diệt.” (chiết = đổ gãy). Năm AD 939, Ngô Quyền thắng quân Nam-Hán và tuyên bố độc lập.
 
(2) Vua Đinh Tiên Hoàng và con trai bị cận vệ Đỗ-Thích ám sát năm 979. Nhà Tống (Song) nước Bắc sửa soạn chiếm nước Nam; năm 981 đem quân tới biên giới. Nhưng nước Nam biết trước nên tướng Lê-Hoàn chặn đánh tan quân Bắc ở biên giới. Sau đó, Lê-Hoàn khởi đầu nhà Tiền-Lê với tước hiệu Lê-Đại-Hành.
 
(3) Những ai chú ý chút ít Việt-Sử đều biết nhà Trần đã ba lần chiến thắng quân xâm lăng Mông-Cổ (Yuan) các năm 1258, 1285, và 1287. (Yuan, dòng họ Ganghis-Khan Mongolia cai trị nước Bắc (China) thời kỳ đó.) Nước China trước đó gồm 10 nước khác nhau: (Zhou, Jin, Xi-Xia, Liao, Nanzhao, Qidan, Northern Song (Bắc-Tống), Southern Song (Nam-Tống), Sui, Tang). Tuy họ đang phát triển chữ Ideograph (tượng hình), nhưng mỗi nước phát âm khác nhau, nói chuyện không hiểu nhau nên phải “bút đàm”. Trớ trêu thay, người Mongols đã thống nhất 10 nước China, rồi chọn tiếng vùng Peking làm tiếng Quan-Thoại. (Ngay cả ngày nay, cùng là người Chinese mà ỏ hai vùng khác nhau, hoặc là cùng biết tiếng Quan-Thoại, hay là phải học tiếng của nhau mới nói chuyện được với nhau.)
 
(4) Hồ Quý Ly là quan của nhà Trần. Sau khi thủ tiêu nhiều con cháu can đảm nhà Trần, chỉ còn mấy người nhát gan mời hắn lên làm vua năm 1400. Một quan tên Nguyễn-Khang giả là cháu họ Trần sang China làm việc dại dột xin quân nhà Minh sang giúp. Nhà Minh cai trị dân Việt rất độc ác như thời Mã-Viện. Nhờ có Lê-Lợi đánh quân Minh 10 năm mới giành được độc lập. Lê–Lợi lập nhà Hậu-Lê tước hiệu Lê-Thái-Tổ.
 
(5) Hậu-Lê cai trị nước Nam đến năm 1527 thì Mạc-Đăng-Dung làm phản tương tự như Hồ-Quý-Ly chiếm ngôi nhà Trần. Nhà Minh lại sửa soạn định chiếm nước Nam. Mạc-Đăng-Dung biết chắc sẽ thua nên dâng châu báu và cắt một phần nhỏ nước Nam cho nước Bắc rồi sang nước Bắc nộp mạng.
 
(6) Khi Mạc-Đăng-Dung chiếm ngôi, mấy hoàng tử chạy trốn ở mấy vùng khác nhau. Mỗi người lập quân đội riêng. Họ đánh nhau giành ngôi. Nguyễn-Kim và hai con trai Nguyễn-Uông, Nguyễn-Hoàng, con rể Trịnh-Kiểm phò một hoàng tử. Nguyễn-Kim chết, trao quyền cho con rể. Kiểm thắng trận, lập nhà Lê-Trung-Hưng; Kiểm lấn quyền; vua chỉ là bù nhìn. Kiểm giết Uông; nên Hoàng dẫn một phần quân đội chạy vào miền nam lập giang sơn riêng. (Sau này là nhà Nguyễn-Phước.)
 
Năm 1771, nước Nam lại có 3 phe đánh nhau. Vua Lê và quan Trịnh ở bắc, Nguyễn-Huệ ở trung, Nguyễn-Hoàng ở nam.
 
Miền bắc vua Lê-Chiêu-Thống bị lấn quyền chạy sang nước Bắc cầu xin nhà Thanh (Qing); do đó quân Thanh lại đem quân chiếm nước Nam năm 1789. Tình huống đó, Nguyễn-Huệ xưng là vua Quang-Trung, đuổi được quân Thanh.
 
Tóm lại, trong thời gian quá khứ, rất nhiều lần nước Bắc đã chiếm nước Nam; nhưng quân dân Nam đã đánh đuổi được. Ngày nay, cờ nước China có 1 sao lớn và 4 sao nhỏ. Theo Internet thì sao lớn tượng trưng dân tộc Hán; 4 sao nhỏ tượng trưng cho 4 dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Có ý nghĩa gì khi một sao lớn hơn mấy sao khác? Trên Facebook, vài lần đưa tin khi Vietnam tiếp một nhân vật chính phủ China, trên đài TV, cờ China gắn thêm một sao nhỏ nữa!? Mong rằng đây chỉ là “tin vịt” hình “giả dối”.
 
*
 
Không nước nào có chung biên giới với nước Bắc (China) làm những việc sai lầm to lớn và lâu dài gần 20 thế kỷ về chữ viết và văn học như nước Nam (Việt Nam). Thí dụ Korea: thế kỷ thứ 15, triều đại Yi, vua thứ IV (1419 – 1450) nước Korea đã ra sắc lệnh dùng chữ Hangul, khác hoàn toàn với chữ Chinese, cho tiếng nói Korean của họ. Do đó các văn nhân thi sĩ đã dùng chữ này để viết truyện làm thơ tả nhân vật và cảnh đẹp của nước họ. Nước Nam (VN) thì cứ mù quáng dùng chữ Chinese, phát âm chữ Nho mà dân không hiểu, phải giải thích mãi mới hiểu.
 
Nước Nam (VN), ngay sau những lần đuổi được quân xâm lăng về nước Bắc, vẫn trọng vọng tất cả những gì của nước Bắc: đam mê văn học, say đắm nhân vật, ca ngợi cảnh vật. Lỗi lầm to lớn kéo dài 20 thế kỷ là khinh chê ngôn ngữ của chính dân tộc mình, dùng tiếng ngoại lai, chữ nước China (mà đại đa số 95% dân không hiểu), để tuyển lựa người cai trị nước; dùng chữ ngoại lai trong tất các công văn, hộ tịch, vân vân. Thật xấu hổ, khi vua Việt loan kêu gọi việc gì trực tiếp với dân, lại nói tiếng Chữ-Nho để tỏ ra là thông thái (sic), rồi một quan dịch ra tiếng Việt cho dân Việt.
 
Tuy tiếng Chữ-Nho không là tiếng Quan-Thoại, nhưng nó tương đương như một tỉnh nước Bắc: (cùng một thứ chữ, nhưng mỗi tỉnh phát âm khác nhau). Nếu không đuổi được quân xâm lăng, rất dễ bị đồng hóa.
 
Một sự thật nữa trong quá khứ là không có hệ thống trường lớp học Chữ-Nho, chỉ có một số vị giỏi Chữ-Nho không được làm quan (hoặc “từ quan”) mở lớp tại nhà riêng hay đình làng. Cả nước chắc cũng tới cỡ 100 lớp. Học trò trong lớp có các trình độ thấp cao khác nhau.
         
Mặc dầu trong thời gian 8 thế kỷ (từ XIII đến XX) trong số 5% các vị giỏi Chữ-Nho có vị đã dày công sáng chế chữ Nôm để ghi âm tiếng Việt, tiếng của dân tộc; như vậy phải giỏi Chữ-Nho mới đọc được Chữ-Nôm nên khó quá, thêm vào đó nó không được triều đình công nhận nên không phát triển được. (Bài Văn Tế Cá Sấu đã được viết bằng Chữ-Nôm năm 1282.)
 
Sau 8 thế kỷ, mà chỉ có 26 tác phẩm Chữ-Nôm bằng thơ. (Nhưng rất tiếc hầu hết chúng gồm toàn các nhân vật Chinese và cảnh bên China.) Thơ gieo vận nên một người đọc các người nghe mới dễ nhớ để sau này lại kể cho những người khác. Người khác lại kể cho người khác nữa.
 
Ngày nay, với Việt-ngữ (Alphabet-script) ta đang dùng, chỉ trong vòng một tháng có thể có cả trăm tác phẩm, chưa kể báo tháng, báo ngày, bản nhạc, vân vân.
 
*
                   
Lịch sử thành lập chữ (Quốc-ngữ) Việt-ngữ = Alphabet-script, hệ thống trường lớp học được xây tổ chức, mọi lứa tuổi dân Việt nô nức học, tôi  đã viết sẵn bài 16 trang: (Tinh Hoa của Tiếng Việt-Nam).
 
Chữ-Nôm quá khó như thế nào; Việt-ngữ mở rộng chân trời cho dân và nước Việt-Nam, tôi đã viết sẵn bài 7 trang: (Chữ Viết Khác Nhau cho Tiếng Việt Qua Các Thời Đại).
 
*
 
Trong chương VN-2 (Nhật-Bản Mở - Việt-Nam Đóng), ta thấy bất cứ lãnh vực nào, say mê hay trông nhờ nguồn gốc một nước duy nhất là dại dột và thiển cận, nhất là Việt-Nam một nước nhỏ mà lại nằm ở vị trí chiến lược toàn cầu. Tiếng nói cũng vậy; xin đừng ngụy biện nó là truyền thống. (Việc gì tốt đẹp mới giữ; điều sai lầm phải bỏ.) Hãy theo gương Anh-ngữ đã múc nguồn từ nhiều gốc khác nhau.
         
Nếu để ý, quý vị sẽ thấy từ đầu thế kỷ 19, cách nay hơn một thế kỷ, tiếng Việt đã có khoảng một ngàn chữ gốc Anh-Pháp đọc trại đi (tương tự như xưa học tiếng Chinese đọc trại đi thành Chữ-Nho). Sau đây là một số ví dụ tiếng gốc Anh-Pháp:
 
Ô-tô (auto), lô-gích (logic), nhà ga (gare), con-vít (vis) mít-tinh (meeting), xà-bông (savon), áo-sơ mi (chemise), cà-phê (coffee), tách (tasse), bia (beer), rượu-xâm-banh (champagne), thịt bít-tết (beefsteak), bánh bích-qui (biscuit), quần-sọc (short), cao-bồi (cow boy), mũ cap (kép), áo-măng-tô (manteau), sô-cô-la (chocolate), bơ (beurre), phô-mát (fromage), cà-rốt (carrot), xà-lách (salade), hô-ten (hotel), xe buýt (bus) Cao-su, si-măng, ca-nô, xe tăng ... chất hóa học... thuốc chữa bệnh...  (còn rất nhiều).
 
Trong các lãnh vực khác, ví dụ âm nhạc, có các chữ như piano, violin, guitar, harmonica, harmonium, . . . valse, bolero, tango, Rumba, rock, chachacha, samba, đâu cần tìm Chữ Nho gốc Chinese để đặt tên cho phức tạp khó hiểu thêm!
 
Hệ thống đo lường: trọng lượng (gram), chiều dài (mét), thể tích (lít), các hãng xe, loại xe Renault, peugeot ... vân vân.
 
Thế kỷ 21 rồi, ảnh hưởng trong nhiều lãnh vực với tính cách quốc tế mỗi ngày càng tăng. Có những sáng chế từ Âu-Mỹ, (không phải từ China) có tên quốc tế rồi như radio, tivi, computer, internet, E-mail, video, calcium, aspirin, vitamin, . . . mà lại giật lùi lại cố gắng tìm kiếm chữ Nho gốc Chinese! Ta không muốn gia nhập cộng đoàn thế giới, chỉ muốn dựa vào China hay sao? Gần cuối thế kỷ XX, khi dân chúng đang rành rẽ nhiều danh từ gốc Pháp, vài ông bà mê Chữ-Nho đặt tên lại như tây-ban-cầm (guitar), dương cầm (piano) vĩ cầm (violon) ... Dân chúng chẳng ai theo vì không muốn học những điều vô ích.
 
Cứ khăng khăng chỉ dùng chữ gốc Tầu mà thôi là bước đi theo cùng một lỗi lầm lớn của thời đại trước. Hãy thêm chữ gốc Âu-Mỹ giúp dân ta bớt nhìn vào nước China mà nhìn thêm ra cả toàn thế giới.
 
Trên thế giới, có gần 200 nước, trong thế kỷ trước, khoảng 40 nước Việt-Nam đã dùng âm Chữ-Nho (gốc chữ Chinese) để đặt tên. Các thành phố thì ít hơn. Nhưng nay thì đang được thay thế bằng âm tiếng English hay French. Ví dụ Israel, Afghanistan, Iran... Canada, Argentina, Brazil... Bangkok, Paris, San-Francisco... Vài ông bà còn nuối tiếc dùng A-Phú-Hãn, Ba-Tư, Á-Căn-Đình, Ba-Tây... Vọng-Các, Ba-Lê, Cựu-Kim-Sơn... Nhưng họ rất cô đơn.
 
*
 
Tôi xin đặc biệt đề cập đến công trình Viết Về Nước Mỹ của ngàn người viết triệu người đọc vì đạt được thành công và lợi ích vượt không gian và thời gian.
 
Vượt không gian vì các bài viết được đăng trong báo ngày Việt Báo và in thành sách Viết Về Nước Mỹ hàng năm hơn một phần tư thế kỷ, các bài viết còn hiện diện trên Website đạt được thành công rất lớn, hiện nay đã có nhiều triệu độc giả trên toàn thế giới ngưỡng mộ tìm đọc. Hãnh diện hơn nữa, sách được lưu trữ lâu dài trong Thư Viện Quốc Gia Hoa Kỳ.
 
Vượt thời gian vì (a) các bài viết sẽ tồn tại trong tương lai những chứng tích lịch sử của Chiến Tranh Việt Nam kéo dài và tàn khốc gây đau thương và tàn phá không kể xiết; (b) tiếp theo là những chính sách cai trị hà khắc và độc ác của đám người độc tài thắng trận gây nhục nhã và đói khổ đến dân bị cai trị; (c) sau đó là các đợt vượt trốn chế độ độc tài đi tìm tự do trong hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm khiến từ ba trăm ngàn đến nửa triệu chết, trong hoàn cảnh kinh hoàng. (Tổng số từ Cơ Quan Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc HCR).  Một số phụ nữ trẻ bị hải tặc hay cướp “làm nhục” tập thể trong thuyền trên biển cà hay trong rừng sâu. Nam bị đánh chết, xác vất xuống biển.
 
Tuy rằng tất cả các vị làm thơ viết văn Việt-ngữ hiện tại đều là những người đã thông tạo tiếng Việt và chữ Việt tại quê nhà trước khi bỏ nước ra đi, vẫn là một thực tế rất đáng hân hoan. Nước nào cũng vậy tổng số văn thi sĩ chỉ khoảng vài ba phần trăm trong tổng số dân.
 
Từ vài chục năm nay, chúng ta đã đồng ý với sự phân chia thành ba thế hệ người Việt đang sống ở nước ngoài: (1) Thế hệ thứ nhất gồm những vị đã thông tạo tiếng Việt vả chữ Việt tại quê nhà trước khi bỏ nước ra đi. (2) Thế hệ một rưỡi gồm những người rời khỏi quê nhà trong tuổi thiếu nhi chưa rành rẽ chữ và tiếng Việt. (3) Người trẻ được sinh ra ở quê hương thứ hai. Theo nhận xét của tôi thì việc đọc sách và báo Việt không có được sự hân hoan tương đương như trên. Tôi không dám viết ra đây phần trăm ít ỏi đã lượng định, xin quý độc giả tự làm việc này.
 
Vậy ta phải làm gì để Giúp Thế Hệ Sau Đọc Sách Báo Việt? Ta hãy làm thế nào mà chợt có dịp may, một người thế hệ sau cầm quyển sách hay tờ báo đọc thử, nếu họ hiểu thì mới có cơ may họ sẽ tiếp tục đọc sách báo Việt. Nếu không hiểu thì họ sẽ từ giã, rất khó sẽ thử lại một lần nữa. Việc làm này cũng giúp cho toàn dân Việt nhìn rộng ra thế giới.
 
Sau khi đọc các sách hàng năm Viết Về Nước Mỹ của Việt Báo tôi thấy càng ngày càng phải dùng thêm từ vựng trong các lĩnh vực chuyên môn, đặc biệt là Tây-y-khoa với phương pháp tìm bệnh, ngừa bệnh, chữa bệnh và tên các thuốc. Cụ thể cuốn năm 2023 có thêm khoảng một ngàn từ Anh-ngữ viết nguyên dạng (khác với những từ kể ở phần trên, không phiên âm sang Việt-ngữ.) Có từ được dùng lại rất nhiều lần, càc phrases (nhóm từ), sentences (trọn vẹn câu).
 
Ngay phần mở đầu nơi trang 4 đã có 5 dòng Anh-ngữ thông báo cần thiết xuất xứ của cuốn sách: Writing on America Volume XXIII . . . Xin quý vị tìm đọc và làm nổi bật (highlight) những từ vựng English để thấy rằng tôi viết ra sự thật.
 
Nhưng tôi xin liệt kê một số lãnh vực mà cuốn này dùng từ vựng English: Phương tiện truyền thông, tây-y-khoa, thành phố, địa danh, tên các nước, hội đoàn, xây cất, tên các film, địa chỉ, tên nhà thờ, bệnh viện, tên sông, biển, dụng cụ kỹ thuật, hoa, cây cỏ, tên người, thực phẩm, các hê thống đo lường của Mỹ, tên đàn, nhạc, films ciné, chim muông: tên các hãng sản xuất, tên  xe, thời-tiết, bão, dịch vụ, sinh hoạt tour, tên tiền Tiền: (Dolla, Euro) tên trường học, tên chợ . . .  Xin quý vị tìm đọc và làm nổi bật (highlight) các từ vựng English để thấy rằng tôi viết ra sự thật.
 
*
         
Như vậy đề nghị của tôi đi sau đường hướng Viết Về Nước Mỹ hơn hai thập niên và chỉ nằm trong một lĩnh vực, nó chỉ bằng một phần trăm mà thôi.
 
Đề nghị sau đây của tôi không mới mẻ đâu mà đã bắt đầu từ lâu rối. Sau đây là đề nghị của tôi:
 
Nguyên tắc I: Tên các nước ta không Nho hóa mà dùng như tiếng Anh; (ta có thể phiên âm bằng tiếng Việt). Ví dụ ta đã dùng tên nước Algery, Iraq, Panama . . . tên thành phố Tokyo, Marseille, Quebec . . .  được; tất nhiên các nước khác thành phố khác cũng dùng tiếng Anh được. Sau một thời gian sẽ quen dần.
 
Nguyên tắc II: Xin hãy giảm bớt dùng chữ Chữ-Nho (gốc Chinese); và dùng chữ ngôn ngữ Việt thay thế vào.
 
Nguyên tắc III: Xin hãy phát âm và ghi âm tên nơi chốn nước China và tên riêng họ như tiếng Anh. (Để nhấn mạnh hai nước khác nhau hoàn toàn. Đây cũng là hình thức ngăn ngừa bị đồng hóa.) Chắc là nó khó một thời gian, nhưng nó sẽ quen dần.
         
Tham Khảo:
Biểu Nhất Lãm Văn Học Cận Đại (GS Thanh Lãng) Nguồn Gốc Chữ Quốc Ngữ + Lịch sử Thế Giới (LM Đỗ Quang Chính) Chữ Viết của Người Việt Nam Qua Các Thời Đại. Nam Hoài Bão. 
         
 
Trần Đức Hân           
 
 

 

 

           

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 503,918
Chúng tôi đến phim trường khoảng năm giờ chiều, một tiếng trước giờ quay. Khoảng ba mươi phút sau, đạo diễn chương trình bước lên sân khấu để giúp mọi người làm nóng chuẩn bị cho buổi quay. Ông đạo diễn dặn rằng nếu thấy cái bảng đèn điện có chữ "Applause", mọi người khán giả chúng tôi nhớ vỗ tay thật lớn. Nếu cái bảng "Noise" chớp đèn, chúng tôi nhớ la hét điên cuồng. Nếu bảng "Stand" chớp đèn, mọi người nhớ đứng lên. Vì là lần đầu tiên được tham gia chương trình ghi hình trực tiếp, tôi không hiểu tại sao đạo diễn dặn chúng tôi những điều này để làm gì. Tôi cảm thấy buồn cười khi đạo diễn ra hiệu cho nhân viên điều khiển ba cái bảng trên lần lượt chớp để chúng tôi thực tập. Chúng tôi ngoan ngoãn làm theo: hết vỗ tay đến la hét rồi đứng lên. Khi chương trình quay hình bắt đầu, cả ba cái bảng đều chớp lia lịa ngay lúc Dennis Miller bước ra sân khấu. Tất cả mọi người trong trường quay đều đứng lên, vừa la hét vừa vỗ tay long trời lở đất.
- Ôi, tội nghiệp quá. Rồi sao nữa chị? - Mẹ của Lộc muốn em làm theo ý của mình là học ngành điện toán hay khoa học, nhưng Lộc lại giấu mẹ theo học về hội họa. Sau khi mẹ em biết được, bà buồn, thất vọng và có thể chì chiết gì đó nên Lộc đã mua súng để tự bắn mình. - Chuyện xảy ra khi nào vậy chị? - Cách đây vài tuần. Sau lễ Thanksgiving. - Trời!
Thời gian vụt như thoi đưa ngoài khung cửa. Mới đầu Tết Quý Mão đó mà bây giờ đã sắp hết năm chuẩn bị đón xuân Giáp Thìn. Mấy hôm nay được nhiều nơi biếu lịch, tôi ngạc nhiên chỉ thấy in toàn hình con Mèo mà không phải con Rồng. Vào ông Google tìm hiểu thắc mắc của mình nhưng không thấy trang Web nào đề cập. Nhìn hình lịch toàn những con Mèo đen, trắng, xám, nâu thật xinh” thì ra con Mèo được người ta quý trọng như vậy. Tôi nghĩ đến ông chồng tuổi Mão, bất ngờ cảm hứng muốn viết đôi điều về người chồng đã chung sống với mình gần 40 năm...Xin phép cho tôi được gọi Chàng là con Mèo cho gọn. Con Mèo này không hề phá làng phá xóm hay làm mất lòng ai, nên được bà con thương mến cảm tình.
Năm 2023 đã qua đi và để lại cho thế giới cũng như Hoa Kỳ những hệ lụy, những biến động vì thiên tai, biến đổi khí hậu, tác động của Covid-19, lạm phát tăng cao, kinh tế trì trệ và cả chiến tranh, các cuộc xung đột của Nga - Ukraine và Palestine - Israel. Năm qua, bang California chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của vấn nạn trộm cướp, đập phá, đặc biệt là những vụ bạo lực gây náo động xã hội. Các công ty, doanh nghiệp bán lẻ ghi nhận sự gia tăng đáng kể về tổn thất tài chính liên quan đến nạn trộm cắp. Các công ty, doanh nghiệp bán lẻ đã phải tăng cường đội ngũ an ninh, thuê thêm nhân viên bảo vệ, thay đổi sản phẩm, cất giữ hàng hóa có giá trị trong các hộp khóa, giảm giờ hoạt động hoặc buộc phải đóng cửa các cơ sở, cửa hàng.
Tổng Thống Abraham Lincoln đã có một câu nói nổi tiếng: You can fool all of the people some of time; you can fool some of the people all of the time, but you can't fool all the people all the time.” Tạm dịch: Bạn có thể đánh lừa tất cả mọi người một lúc nào đó; bạn có thể lừa dối một vài người nhiều lần, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi được”. Nhà Phật có thuyết nhân qủa, trong Thánh Kinh Thiên Chúa nói: Điều gì con không muốn người ta làm cho mình thì đừng làm cho người ta. Đó là những ràng buộc tâm linh về lẽ công bằng. Hướng dẫn mọi người hãy cố sống cho phải đạo.
Hôm nay tôi có họp và tiệc cuối năm với cấp trên, có cả màn ảo thuật đặc biệt giúp vui ở phần cuối nên buổi tiệc kết thúc hơi trễ, mãi 9 giờ tối mới lò mò về. Khi lái xe về gần đến nhà, tôi nhớ ra hôm nay cũng là ngày trong tuần County đi lấy rác. Mùa đông trời tối sớm. Thời tiết mấy hổm rày lại nhiều gió và lạnh âm độ C, nên thật nhát ra ngoài trời. Tôi tưởng tượng sau khi mang cặp giỏ đi làm vào nhà, tôi sẽ phải đẩy hai thùng rác vào trong. Nhưng khi đến nhà, tôi ngạc nhiên không thấy thùng rác của mình nằm bên lề đường đợi. Lái xe vào sâu bên trong driveway thì thấy thùng rác đã nằm ngay ngắn ở chỗ của chúng.
Tâm hồn đang mơ say với giấc mộng đẹp còn vương lại từ đêm hôm qua. Bỗng nghe tiếng gọi của dì Thu, tôi giật mình tỉnh giấc rồi mà lòng vẫn còn luyến tiếc mộng mị an lành vừa thoáng tan đi. Chợt nhớ lại, hôm nay Huấn sẽ đến đón hai dì cháu chúng tôi đi biển. Sau nhiều lần chàng mời, dì Thu cứ nấn ná mãi cho đến gần ngày lễ ra trường của tôi, dì mới nhận lời để cả hai dì cháu đi chơi chung với anh hôm nay, và dì cháu tôi cũng nhận lời mời sẽ đến thăm gia đình bên ấy nhân ngày đọc kinh giỗ cho cha của chàng vào thứ bảy tuần tới.
Anh Nghê Minh Hiệp sinh và lớn lên tại Saigon, trong một gia đình có thân phụ là một sĩ quan từng phục vụ các Sư Đoàn 7, 9, 21 Bộ Binh, với chức vụ sau cùng là Thiếu Tá thuộc SĐ 21 BB, và 3 người anh em cũng là quân nhân, với người anh cả phục vụ trong Tiểu Đoàn 35 Biệt Động Quân, người anh kế là một phi công trực thăng, và người em rể cũng là một phi công trực thăng vỏ trang – cả 2 người này đều tốt nghiệp phi hành từ Hoa Kỳ. Do sống gần thân phụ, Hiệp chuyển trường nhiều lần, học qua các trường trung học Vĩnh Bình và trung học Tống Phước Hiệp, ở Vĩnh Long. Sau khi đậu Tú Tài vào năm 1968, Hiệp tình nguyện đầu quân vào Không Quân VNCH khi anh vừa tròn tuổi 19. Vào năm 1969, Hiệp được gởi sang Hoa Kỳ học bay. Tháng 11, năm 1971, sau khi hoàn tất chương trình học lái máy bay phản lực trong một năm rưỡi, Hiệp trở về Việt Nam, và được đưa ra Đà Nẵng phục vu Phi Đoàn 516, lái khu trục phản lực A 37. Cuối năm 1972, Hiệp được điều vào Biên Hòa học lái chiến đấu cơ phản lực F5. Xong khóa học
Ngày đầu năm, năm đó, cả nhà cô Ba gồm mười mấy người lớn nhỏ ra tiệm ăn cơm Tàu. Đại gia đình sống trong một thành phố nhỏ, chỉ có mỗi nhà hàng Tàu này mà thôi. Tiệm đắc lắm, có món lạp xưởng hết sẩy, đang thèm mà. Trong tiệm đầy khách ăn nói xôn xao vui vẻ. Sự ồn ào y như mấy quán ăn hồi còn ở Việt Nam. Làm như tất cả những những người gốc Á Đông sống xung quanh đều tụ lại đây hay sao ta? Đang ăn, bỗng dưng cô Ba thấy quặn đau một cái, ngưng nhai, đợi, rồi tỉnh bơ nhai tiếp. Đau quặn thêm cái nữa, cũng đợi, ngừng tay gắp, làm thinh, chịu đau.
Những lời thằng Eddie chạm vào điểm nhạy cảm của Steven, điều nó nói cũng là ý nghĩ vốn có trong đầu Steven. Người Việt hải ngoại không còn mấy ai đọc sách, tầng lớp trí thức gốc Việt chỉ đọc sách tiếng Anh có liên quan đến vấn đề chuyên môn của công việc, lớp trẻ sanh ra hay lớn lên ở hải ngoại chỉ đọc sách tiếng Anh vì đâu đọc được tiếng Việt. Tầng lớp bình dân làm móng, lao động tay chân thì không đọc sách dù là tiếng Anh hay tiếng Việt, cả đời không đụng đến sách báo. May ra chỉ còn một số ít ỏi yêu thích văn chương là chịu đọc. Sách tiếng Việt ở hải ngoại coi như cùng đường, đang thoi thóp hấp hối. Sách có in ra thì cũng chỉ để tặng quanh quẩn một nhóm người trong giới viết lách, yêu thích văn chương. Sách phát hành trên Amazon cũng chỉ để khoe mẽ cho vui chứ có ma nào mua. Viết lách chẳng những không được gì mà còn phải tốn tiền làm bìa, tiền dàn trang, tiền in, tiền để được lên mạng Amazon… Một thực tế đen tối và phũ phàng nhưng người viết vẫn cặm cụi, vẫn miệt mài. Viết là nỗi
Nhạc sĩ Cung Tiến