Tác giả bắt đầu tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng 11, 2018, với bài “Tình người hoa nở”. Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thúy, sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali. Tác giả nhận giải Vinh danh Tác giả 2023. Bài viết kỳ này ghi lại nhiều sinh hoạt ở miền Bắc California trong “Tháng Tư Buồn” nhớ về Năm Mươi Năm – Ngày Quốc Hận.
Phần I
Ngày tháng trôi qua vùn vụt, mới đó đã nửa thế kỷ từ khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam. Năm nay hình như cơn buồn của người dân tỵ nạn tăng lên nhiều hơn, nỗi nhớ, nỗi uất hận cũng thấm đậm hơn. Tôi thấy nhiều hội đoàn xôn xao chuẩn bị ngày tưởng niệm mất nước trong “tháng Tư Đen” sớm hơn, thay vì những năm trước chỉ vào cuối tháng.
Chủ Nhật ngày 6 tháng 4/ 2025 chương trình ca nhạc “Kỷ Niệm 50 Năm Sài Gòn Mất Tên” do Nhóm Thân Hữu Sài Gòn, ban nhạc Sài Gòn Nhớ và ông Lê Văn Hải, Hội Trưởng cơ sở Văn Thơ Lạc Việt (VTLV), cũng là Trưởng ban Báo chí Bắc Cali và chủ báo Thằng Mõ kết hợp tổ chức tại quán Coffee Lovers tọa lạc tại 1855 Aborn Rd. San Jose, Ca 95121. Cũng như bao nhiêu lần tổ chức, người hùng Lê văn Hải luôn khoản đãi phần nước ngọt free và phần quà sổ số trúng thưởng.
Quan khách đến dự quá đông, nhiều cụ già con cháu đẩy xe lăn vào ngồi lắng nghe những bài hát mang chủ đề “Chiều Nhạc Tưởng Niệm 50 Năm Sài Gòn Mất Tên” Những khuôn mặt trầm tư với mái tóc pha sương, ánh mắt trĩu buồn xa vắng. Năm mươi năm tưởng như mới ngày hôm qua, dù Sài Gòn đã bị Việt Cộng (VC) đổi tên, nhưng nó vẫn còn sống mãi, hằn sâu trong tâm trí, và cất giữ trong trái tim người dân miền Nam đang ở trong nước, cũng như đồng bào tỵ nạn đang sống lưu vong trên khắp thế giới.
“Sài Gòn ơi! Tôi đã mất người trong cuộc đời
Sài Gòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời
Giờ còn đây, những kỷ niệm sống trong tôi
Những nụ cười nát trên môi
Những giọt lệ ôi sầu đắng...” (*1)
Tiếng hát vang lên trong không khí lắng đọng...hình ảnh Sài Gòn được mang danh Hòn Ngọc Viễn Đông nhộn nhịp đầy sinh động còn đâu nữa. Ký ức không thể quên được ngày 30/4 đen tối, tang thương bị Việt Cộng chiếm đoạt miền Nam. Niềm đau buồn của đất nước, đảo lộn cuộc sống đang ấm no hạnh phúc trở thành địa ngục chốn trần gian.
“Năm 1954 ông bà Nội tôi đã đưa gia đình trốn thoát ban đêm lên Hà Nội, tới Hải Phòng xuống tàu di cư vào Nam vì có tên trong danh sách chôn sống địa chủ. Tháng tư/1975 lúc VC vào chiếm, những tiếng thở dài, những lời gào khóc đau đớn. Mẹ tôi, đôi mắt trũng sâu và quầng thâm qua một đêm thao thức, tuyệt vọng kéo tôi ra góc sân:
- Con cầm tiền thích gì thì mua ăn. Rồi đến tiệm thuốc tây mua thuốc rầy, mấy mẹ con cùng uống. Mẹ đã từng sống với họ rồi. Không chịu nổi đâu con.
Tôi quay lưng, tránh nhìn đôi mắt đầy nước mắt của mẹ, bước vội ra phố. Tôi đã không làm theo lời dặn mua thuốc vì đầu óc đang còn ngơ ngẩn.
Cũng khoảng thời gian này, bà Nội đang ở với chú tôi tại Phan Rang đã nổi cơn điên, gào thét khi thấy lá cờ đỏ sao vàng: “Quân ăn cướp! Trả lại tài sản cho tao. Quân ăn cướp!” Nửa đêm bà Nội trốn ra khỏi nhà. Không biết bà chết, vùi thây nơi đâu, đến nay con cháu vẫn không có tin tức. Sau đó là những ngày đói rách cùng tận... Tinh thần mẹ con tôi bị khủng bố theo mỗi đợt họp cưỡng bách đi kinh tế mới, ép đi lao động thủy lợi.
Cha tôi hồi đó là Trưởng Cuộc Cảnh Sát. Sau hơn một năm rưỡi đi tù cải tạo về, bị cưỡng ép lên vùng kinh tế mới với dì Hai và bảy người em. Cha tôi lạnh lẹ mở lò gạch nên dân trên vùng kinh tế mới có việc làm. Ông vận động nhà cầm quyền địa phương, xin quyền lợi cho nhân công được lãnh tem phiếu và gạo mỗi tháng. Công việc trôi chảy nếu không nói là phát triển mạnh. Dưới thành phố bệnh viện, cơ quan, trường học lên ký hợp đồng mua gạch rất nhiều. Thế rồi chủ tịch kiểm soát vùng kinh tế mới đến mượn lò gạch và ngang nhiên chiếm trâu bò của em tôi (dùng vào rừng đốn củi). Cha tôi uất ức nghẹn ngào nói với con cháu “chưa thấy chế độ nào khốn nạn như vậy, mình bị ngã nó đạp cho xuống vực, mình vừa ngoi đầu lên nó lại ăn cướp công của tài sản”.
(trích từ bài viết “Nửa Thế Kỷ Nhìn Lại của tôi được in trong tuyển tập của hội Cô Gái Việt).
Trở lại buổi chiều nghe nhạc trong không khí trầm lắng, tiếng hát buồn vời vợi đưa tâm hồn mọi người đi về miền quá khứ, tiếc nuối một Sài Gòn hoa lệ với biết bao kỷ niệm. Tôi thầm cám ơn ông Lê văn Hải đã tổ chức hàng năm cùng sự góp mặt của các ca sĩ. Những năm trước tổ chức tại Câu Lạc Bộ Mây Bốn Phương, Cà Phê Lover, và bây giờ là lần thứ 7, chúng tôi được thưởng thức những bản nhạc gợi hình ảnh quê hương yêu dấu xa ngàn trùng đầy tiếc nuối.
Thứ Hai ngày 7 tháng 4 / 2025, theo tin của phóng viên thi sĩ Mạc Phương Đình cho biết “Tại tiền đình Quận hạt Santa Clara, Giám Sát Viên Betty Dương và Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Otto Lee đề xướng cùng Cộng Đồng Việt Mỹ Bắc Cali, phối hợp với Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Tây Bắc Hoa Kỳ, tổ chức buổi Thượng Kỳ và treo Cờ rũ VNCH để khởi đầu cho những chương trình tưởng niệm trong suốt tháng Tư, nhằm ghi nhớ và tưởng niệm một phần lịch sử chung của chúng ta.
Buổi lễ đã được long trọng khai mạc với hàng trăm các cựu quân nhân VNCH, các cựu chiến binh Hoa Kỳ và đồng hương Việt Nam tham dự. Theo dự kiến trong suốt tháng Tư, cờ Việt Nam Cộng Hòa sẽ tung bay tại trụ sở Hành Chánh của Quận Hạt, như một biểu tượng tưởng niệm những người đã hy sinh. Và như một ánh sáng dẫn đường cho hành trình tiếp tục gìn giữ các giá trị về tự do, dân chủ và nhân quyền”.
Chủ nhật ngày 13 tháng 4/2025, ông Lê Văn Hải hội trưởng của VTLV tổ chức buổi “Tưởng Niệm Tháng Tư Đen” tại County Hall (Isaac Newton Senter Auditorium 70 W Hedding ST. San Jose, CA 95110) được bảo trợ bởi Giám Sát Viên Hạt Santa Clara Betty Dương. Vẫn những khuôn mặt đáng kính của VTLV góp bàn tay đắc lực như thầy Phạm Thái lo bao quát, phóng viên Mạc Phương Đình, ông Hoàng Thưởng điều khiển nghi lễ chào cờ hát Quốc Ca Mỹ -Việt, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng mở đầu chương trình, ban nhạc Sài Gòn Nhớ do chị Thuý Nga đảm trách cùng các ca sĩ trình diễn, hai MC duyên dáng Hạnh Thảo, Thanh Loan phối hợp cùng ban Du Ca của ông Trương Tấn Mẫn, đặc biệt có cô xướng ngôn viên Đồng Thảo của đài phát thanh Quê Hương góp mặt.
Hội trường rộng với sự tham dự đông đảo của đồng hương. Sau phần phát biểu của những vị Dân Cử, Giám Sát Viên Betty Dương phát bằng tưởng lục cho ông Lê Văn Hải, phần tâm tình của Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Dũng bày tỏ về ý nghĩa đau buồn của mùa quốc hận. Tiếng nhạc vang lên quyện vào giọng hát.
Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt
Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương
Tự do ôi tự do! em đổi bằng thân xác
Vì hai chữ tự do! ta mang đời lưu vong ... (*2)
Tôi nghe mắt mình cay cay vì ca từ diễn tả về chuyện thuyền nhân vượt biển. Ký ức đi rất xa, xa khoảng thời gian từ 1980 đến 1985 mà tôi đã ghi lại trong câu truyện “Tháng Ngày Tìm Tự Do trước đây.
*
Hơn năm năm vất vả ngược xuôi tìm đường trốn ẩn, có lần trên đường đến điểm hẹn bị bể, bà con chạy tán loạn, tôi và đứa em trai chạy chui vào rừng sâu, nghe tiếng súng nổ bà con bị Công An hốt lên xe, họ lùng sục đến nửa đêm và tôi thoát nạn ở vùng Rạch Sỏi (Kiên Giang). Theo đuổi từ năm này qua năm nọ vẫn miệt mài không sờn chí. Có lần trốn cả nhóm bảy người (dòng họ bà con) trong rừng mấy ngày bị bắt còng tay đi vào làng, được dân miền Nam hiền hậu tốt bụng đem cơm nước, thức ăn xin tổ trưởng cho chúng tôi được dùng, sau đó vào nhà tù An Biên (Rạch Giá).
Ký ức khó quên nhất trong ngày tháng bị tù đày là: Công an coi tù chỉ một hố sâu chứa nước toàn đất sét và rong rêu vàng khè tạm gọi là chỗ... phát nước uống. Mỗi sáng họ mở cửa cho lấy nước từ đó uống, bà con không uống nổi với mùi tanh của nước bẩn, các chị có sáng kiến nấu cơm đổ nước đầy nồi, nước sôi chắt ra bình để cơm cạn chín, từ đó uống bằng mùi nước gạo. Mỗi chiều họ mở cửa cho ra vệ sinh và tắm bằng con đầm nước cũng đục ngầu sau khi đàn trâu tắm trước, chỉ khác chút là không cho trâu tắm chung với người. Ra tù chẳng còn tờ giấy hộ thân, sống chui lủi tránh con mắt công an, đi tới đâu mua vé chợ đen, đêm ngủ chung với đám ăn xin vì không có giấy tờ tuỳ thân, không dám vào phòng trọ quanh bến xe.
Ký ức khó quên nhất trong ngày tháng bị tù đày là: Công an coi tù chỉ một hố sâu chứa nước toàn đất sét và rong rêu vàng khè tạm gọi là chỗ... phát nước uống. Mỗi sáng họ mở cửa cho lấy nước từ đó uống, bà con không uống nổi với mùi tanh của nước bẩn, các chị có sáng kiến nấu cơm đổ nước đầy nồi, nước sôi chắt ra bình để cơm cạn chín, từ đó uống bằng mùi nước gạo. Mỗi chiều họ mở cửa cho ra vệ sinh và tắm bằng con đầm nước cũng đục ngầu sau khi đàn trâu tắm trước, chỉ khác chút là không cho trâu tắm chung với người. Ra tù chẳng còn tờ giấy hộ thân, sống chui lủi tránh con mắt công an, đi tới đâu mua vé chợ đen, đêm ngủ chung với đám ăn xin vì không có giấy tờ tuỳ thân, không dám vào phòng trọ quanh bến xe.
Chuyến cuối cùng lọt đến đảo Pulau Bidong, được Ban Trật tự dẫn về căn gác ở chung hai chị độc thân. Sáng hôm sau nghe loa gắn trên các ngọn cây “Đây là tiếng nói của người dân tỵ nạn Cộng Sản trên đảo Pulau Bidong ...”, tôi mới thật sự biết mình còn sống, đã thật sự rời xa mảnh đất quê hương thân yêu, và ôm mặt khóc nức nở khi nghe Thanh Thúy hát “Ai về bến Ngự cho ta nhắn cùng. Nhớ chăng non nước Hương Bình! Có những ngày xanh...” *(3)
Ngày ngày ra bến đón những chuyến tàu tấp tới, lắm lúc chứng kiến cảnh phụ nữ được khiêng băng ca vào bệnh viện vì tàu bị hải tặc. Có em bé khoảng 15 tuổi ở đối diện trước mặt nhà, nghe những người đi chung chuyến với em, to nhỏ kể chuyện chuyến đi bị cướp, vét sạch tiền vàng, lôi phụ nữ qua tàu họ làm chuyện tồi bại, khi lôi kéo dằng co, em bé này đã khóc lóc gào to: “Lạy Chúa tôi, con đâu có tội tình chi?
Chị T nằm chung gác với tôi, kể chuyến đi của chị gồm mười một người, trên tàu chỉ có ba phụ nữ, trong đó một cô khoảng 18 tuổi đi cùng chồng chưa cưới. Hai tàu từ xa đến húc mạnh vào thuyền của chị tưởng chừng muốn bể đôi. Hải tặc nhảy qua lôi ba người phụ nữ, nó giở trò nhưng thấy chị đang có kinh nguyệt, tát mấy bạt tai mạnh xô chị xuống tàu. Hai cô kia chống cự rất mãnh liệt, nó xốc lên, hai cô vật xuống, cứ như vậy vài lần các cô đuối sức, chúng xé toạt áo, vài tên kềm giữ hai bên để tên khác cười man rợ bày trò khốn nạn trước mặt mọi người. Anh chồng chưa cưới chỉ biết ôm mặt gục đầu. Chúng bắt cóc hai phụ nữ đi luôn trong tiếng khóc nức nở của người chồng.
Tôi chuyển trại qua Sungei Besi (thủ đô của Mã Lai), được Cao Uỷ sắp xếp về khu Thanh Nữ Độc Thân sống chung phòng gồm mười chị em. Chị H cuối góc phòng ít nói chuyện, suốt ngày ngồi đan len, nét mặt ẩn hiện nỗi buồn sâu lắng nội tâm. Được biết tàu chị đi bị lạc hướng lênh đênh hơn một tháng, đói khát kiệt sức nướng thịt người ăn cầm cự nhưng rồi đều chết từ từ, chồng và đứa con trai chị cũng bỏ mạng, lúc gặp tàu quốc tế vớt chỉ còn lại vài người.
Chị A có chồng bên Mỹ, dẫn theo đứa con trai bảy tuổi vượt biên trên chiếc ghe vài người chỉ mình chị là phụ nữ. Gặp hải tặc kéo chị qua tàu, chúng dụ cháu nhỏ các món đồ chơi rồi hiếp chị. Chúng dội nước lạnh vào mặt chị, sau những lần chị bị ngất xỉu, thay phiên nhau làm chuyện tồi bại cho đến khi gặp tàu buôn, chúng phi tang tội lỗi bằng cách giao chị lại. Chị được bệnh viện chăm sóc tận tụy sau thời gian dài nằm liệt người. Mỗi sáng loa phóng thanh gọi tên chị lên kiểm tra sức khỏe, lúc trở về phòng chị cho xem thuốc ngừa thai và thuốc đề phòng bệnh Aids. May mắn tinh thần chị vững mạnh vượt qua chưa bị điên loạn.
Em C hay bị đau đầu thường lên bệnh viện khám, nguyên nhân tàu em gặp ba tàu cướp bao vây tấn công. Tàu đông phụ nữ sợ hãi nhảy xuống hầm trốn, em bị một tên cướp chụp đầu lôi lên trong khi em đang ôm chặt song sắt, tên cướp túm tóc kéo giật mạnh, đang lúc dùng dằng thì tàu tuần tra trên biển xuất hiện, bọn cướp phóng về tàu mình chạy nhanh.
Đáng lẽ tôi được chuyển qua Phi Luật Tân học ba tháng Anh Văn cũng như học về đời sống Mỹ, nhưng bên đó bị tình trạng ứ nghẹt người, nên được chuyển qua đảo Galang 2 của nước Indonesia. Nơi đây tôi sống chung bốn chị em ở dãy nhà dành riêng cho phụ nữ quay ra bìa rừng. Hằng ngày đến trường học, chúng tôi đi ngang qua khu Miếu được dựng dưới gốc cây đa rậm lớn. Nghe kể lại Miếu thờ hai chị em bị hải tặc hiếp, chờ đợi diện nhân đạo hơi lâu, hai chị em nhục nhã mỏi mòn rủ nhau ra đó treo cổ chết, bà con thương tâm lập Miếu thờ.
Hai chị em H và B chung phòng cũng kể tôi nghe: Trong chuyến đi bán chính thức của người Hoa năm 1977, cả gia đình được chia ra 2 tàu, hai em chứng kiến tàu ba mẹ bị đắm chìm giữa biển cả mênh mông, trước con mắt sững sờ của tàu còn lại, nhưng đành chịu bất lực. Hai em nói hình ảnh ấy luôn hiện lại trong giấc mơ đau nhói.
Trong dòng họ bên chồng tôi có cháu gái, hai em gái con bà O ra đi mất tích biền biệt. Vợ chờ chồng đi tù về (anh tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh), cả gia đình vượt biển gặp hải tặc giết hết đàn ông. Năm ngoái tôi được xem phim “Boat People” của đạo diễn Thanh Tâm từ Canada đem qua Mỹ chiếu trong ngày 30/4, có đoạn một nhân vật kể lại: Xác các em thiếu nữ đi chung một ghe tấp vào làng biển xa xôi, được dân chôn và lập nơi thờ, tôi giật mình liên tưởng đến hai dì cháu tuổi còn thanh xuân, đi trong một tổ chức nghe đâu chuyến đó chỉ toàn con gái. Tôi bị ám ảnh nặng đầu khi xem khung cảnh chiếu ngôi làng, muốn về kể cho người chị và bà O nghe, nhưng không có can đảm vì lo ngại khơi lại nỗi buồn cố lắng xuống đã gần 40 năm.
Tôi nép thân trên mảnh thuyền mong mạnh sương gió
Như một người tìm đường về nơi đáy mồ
Tôi bước đi vì không muốn làm kẻ tội đồ
vì tôi muốn lại kiếp con người
muốn cuộc đời còn có những nụ cười... (*4)
Tâm tư tôi đã trải mênh mông trên vùng biển, hình ảnh con tàu đêm giông bão như những chiếc thuyền giấy thả trên nước lụt chơi hồi còn nhỏ. Rùng rợn mỗi cơn sóng ào đến cao ngất phủ xuống con thuyền nghiêng sát mặt nước. Tiếng la hét, tiếng đọc kinh râm ran, tiếng người điều khiển “bà con bình tĩnh tát nước ra, nước đang ngập đầy”, chỉ một tích tắc thuyền sẽ chìm hoặc lật trong đêm tối mực. Tiếng ói mửa thi nhau vào đầu, vào mặt, mùi hôi tanh của kinh nguyệt, ngồi ngâm mình trong nước lạnh cóng, tôi đuối sức nghĩ mình sắp chết, lơ mơ tự hỏi thầm “cha mẹ có linh ứng gì không? con sắp ra đi rồi...” nhưng số còn sống, không bị gặp hải tặc và ký ức chưa bao giờ quên cuộc vượt biển liều lĩnh, tìm một phần sống trong 99 phần chết.
*
Thứ Bảy ngày 26 tháng 4/2025, tại tiền đình Quận Hạt Santa Clara số 70 West Hedding St San Jose, CA 95110, Uỷ Ban Chấp Hành Cộng Đồng Việt Mỹ tổ chức “Đại Lễ Tưởng Niệm 50 Năm Quốc Hận 30 Tháng Tư”.
Chúng tôi đến sớm mang tâm trạng hồi hộp khi thấy các anh lính Việt Nam Cộng Hoà mặc quân phục theo từng binh chủng. Hình ảnh oai hùng của một thời còn sôi sục tinh thần chiến đấu chẳng chịu buông, nhưng vận nước nổi trôi đành theo số mệnh. Các anh đã bị tù đày nơi chốn rừng sâu, bị đọa đày bởi quân Cộng Sản thâm độc hiểm ác. Nhắc đến chuyện tù tội, không làm sao kể hết chuyện dài của các anh đi “cải tạo” mà tôi được nghe kể lại trực tiếp, hoặc đọc nhiều sách như “Đời Tù Một Thiên Nga” của Nữ Tình Báo Thiếu Tá Thanh Thủy, “Con Trâu Đâu Có Cải Tạo” của Nhạc Sĩ Lê Hữu Nghĩa, tôi nhớ nhất hai câu nói của người tù và cán bộ:
Người tù:
- Thưa cán bộ, muốn gia tăng năng suất lao động, ở trại có nuôi một bầy trâu mấy chục con sao không sử dụng để kéo bừa.
Cán bộ:
- Các anh cải tạo chớ con trâu đâu có cải tạo mà bắt nó kéo bừa.
Mời đọc truyện ngắn trong đường dẫn dưới đây để thấm nỗi tù đày nhục nhã bị bóc lột dã man tàn nhẫn không thể tưởng.
Thật là đau lòng uất nghẹn: họ đã ký kết hiệp định ngừng chiến nhưng lại vi phạm trắng trợn, lì lợm cố chiếm miền Nam cho bằng được, để biến một miền Nam đang sung túc bị lộn ngược nghèo đói và lạc hậu. Tôi nhớ năm 2015, giai đoạn này còn đi làm, nhưng nghe cuốn phim “Ride the Thunder” (Cưỡi Ngọn Sấm) của ông Richard Botkin đã từng là vị cố vấn sát cánh với Trung Tá Thủy quân Lục chiến Lê Bá Bình (người thật việc thật) thời chiến tranh Việt Nam. Tôi đi làm về sớm để được xem phim tại rạp, phim chiếu cảnh tù đày của người lính VNCH khiến ai cũng nín thở, đau lòng phải khóc, con mắt mọi người đỏ hoe khi ra khỏi rạp.
Xin trích lời nhận xét:
Xin trích lời nhận xét:
“Sự thật những người lính quân đội Việt Nam Cộng Hòa là những người quả cảm. Không ai muốn ngừng chiến đấu cả. Miền Nam Việt Nam đã gần đoạt được chiến thắng rồi. Nhưng họ phải bỏ súng vì Hoa Kỳ quyết định không hỗ trợ, không viện trợ nữa, trong khi miền Bắc vẫn tiếp tục được Nga và Tàu hỗ trợ. Còn nhiều sự thật nữa mà ông Richard Botkin muốn đưa lên màn ảnh. Sự thật về sự tàn ác của bên thắng cuộc tại những trại tù cải tạo.”
Sự thật về những người vợ có chồng đi cải tạo vừa bươn chải lo cho con, vừa đối phó với mọi khó khăn của cuộc sống, vừa chắt bóp thăm nuôi chồng, vừa mòn mỏi đợi chờ, cho đến ngày chồng hoặc được thoát khỏi ngục tù hay được tin chồng đã chết. Ông Richard Botkin cho biết cũng vì mục đích trả lại sự thật cho lịch sử mà ông muốn biến cuốn “Ride the Thunder: A Vietnam War Story of Honor and Triumph” thành phim.
Giờ đây nhìn những bộ quân phục, tôi lại liên tưởng câu chuyện của Trung Tá Võ Vàng chồng bà Đường (hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi), đã bị Việt Cộng lừa xuống suối một mình, bắn ngang nhiên nhiều phát đạn, đổ tội Trung Tá trốn trại (bạn tù kể lại), thật vô cùng dã man trong trại tù “cải tạo” và khi có dịp về Nam Cali thăm, Cô thường nhắc lại, nay thì Cô và Trung Tá Võ Vàng đã gặp nhau bên kia thế giới.
Chủ Nhật 27 tháng 4/ 2025 có 2 nơi tổ chức lễ:
1/ Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Tây Bắc Hoa Kỳ tổ chức “Lễ Giỗ Và Tưởng Niệm Anh Linh Các Chiến Sĩ Dân-Quân- Cán - Chính Việt Nam Cộng Hoà Tuẫn Tiết trong ngày 30/4 /1975” tại 2670S.White RD #175 San Jose CA 95148.
2/ Cộng Đồng Việt Nam Bắc Cali tổ chức” Tưởng Niệm Quốc Hận Lần Thứ 50” tại 1141 East William Street, San Jose CA 95116.
Thứ Tư 30/4/2025 có 4 nơi tổ chức lễ:
1/ Buổi sáng: Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức/QLVNCH tổ chức “50 Năm Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4/75 & Lễ Truy Điệu Quân Dân Cán Chính VNCH và Các Vị Tướng Tá Tuẫn Tiết” tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ “Thank You America” (Khu Công Viên Vườn Truyền Thống Việt) 1499 Roberts Ave, San Jose, CA 95112 lúc 9 giờ.
2/ Buổi sáng: Liên Hội Cựu Quân Nhân tổ chức “Lễ Thượng Kỳ và Rũ Kỳ” tại Tiền Đình Toà Thị Chính Thành Phố San Jose, số 200 E. Santa Clara St, San Jose CA 95113, được sự quan tâm, phối hợp của chính quyền Thành Phố lúc 11 giờ.
3/ Buổi chiều: Tuổi trẻ Vietnamese American Roundtable tổ chức chủ đề “50 TH Anniversary Commemoration of The Fall of Sài Gòn. Honoring History, Shaping Tomorrow” tại City Hall Rotunda 200 East Santa Clara Street, San Jose CA 95113.
4/ Buổi chiều: Tại Đền Thánh Tử Đạo Việt Nam 685 Singleton Road, San Jose CA 95111: “Lễ Dâng Hương Tưởng Niệm 50 Năm Tháng Tư Đen, Thánh Lễ cầu nguyện cho những thuyền nhân đã chết trên đường vượt biển”
Mùa Quốc Hận năm nay, các hội đoàn thay phiên nhau tổ chức Lễ Tưởng Niệm ngay từ đầu tháng Tư. Thật quý hóa thay những tấm lòng yêu nước Việt Nam Cộng Hòa. Chân thành cám ơn các hội đoàn.
Chú thích:
(*1) Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt- NS Nam Lộc
(*2 & 4) Xin Đời Một Nụ Cười - Nam Lộc
(*3) Đêm Tàn Bến Ngự - Dương Thiệu Tước
Phần II
Thứ Tư đúng ngày 30 /4. Chúng tôi thức dậy thật sớm chuẩn bị lái xe lên dự lễ Tưởng Niệm ngày Quốc Hận tại công viên Vườn Truyền Thống Việt do Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức tổ chức. Biết giờ cao điểm bà con đi làm, đường xá kẹt xe nên khởi hành lúc 7:30, freeway 880 nhích xe từng đoạn, tôi không dám nhìn đồng hồ phó mặc cho số mệnh, đến nơi mới dám nhìn thấy kém 5 phút đúng 9 giờ làm lễ, tôi thở phào sung sướng vì sẽ được hát bài Quốc Ca Việt Nam.
Buổi lễ trang nghiêm do ông Hoàng Thưởng và ông Lê văn Hải điều khiển chương trình. Chúng tôi thắp nén nhang thành kính trước di ảnh các vị: Thiếu Tướng Phạm văn Phú, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Nguyễn Văn Long là những vị anh hùng “Sinh vi Tướng, Tử vi Thần “đã tuẫn tiết trong những ngày mất nước. Ngoài ra còn biết bao nhiêu vị sĩ quan hoặc những người lính vô danh đã tự sát trong thời điểm đó. Thật là vinh danh các vị anh hùng đã vị quốc vong thân, đúng là “Anh Hùng tử, khí hùng bất tử”.
https://tienggoicongdan.com/2015/03/05/cdnvqghk-danh-sach-anh-hung-vnch-tuan-tiet-trong-thoi-gian-30-4-1975/canhsatquocgia.org
Màu nắng rực rỡ chan hòa, mây trời trong xanh tuy khí hậu còn hơi lạnh. Tôi ngẩng nhìn tượng đài Việt - Mỹ, pho tượng người lính Mỹ và người lính VNCH trong tư thế hiên ngang anh dũng đầy tinh thần bất khuất. Mắt nghe cay mờ, hồi tưởng biết ơn đến sự hy sinh của những người lính VNCH, quý báu hơn nữa là những người lính Mỹ, xin trích một đoạn trong bài viết “Ký Ức Chưa Phai” của tôi:
… “Trí óc tôi miên man càng lúc càng sâu về đề tài chiến tranh và sự hy sinh… Điển hình về bức tường đá đen tại Washington DC, được khắc tên hơn 58,000 anh hùng lính Mỹ đã hy sinh tính mạng trong cuộc chiến tại Việt Nam. Điều thật đáng trân trọng và hiểu rõ nỗi đau đớn khôn cùng của những bà Mẹ, những người vợ trong hoàn cảnh mất con mất chồng. Làm sao chúng ta có thể quên được hay mất đi những cảm xúc nhức nhối này, người Mỹ không chết vì nước Mỹ, một sự hy sinh quá vĩ đại dù đã 45 năm trôi qua, nó luôn là nỗi đau buồn đối với người thân họ, và chúng ta cũng sẽ ray rứt phần nào với cái chết của họ” …
Thầm lặng nguyện cầu đến những anh linh tử sĩ đã hy sinh bỏ mình ngoài chiến trận, những người tìm tự do bỏ mạng trên biển cả, đường bộ, những tù “cải tạo” chết trong rừng sâu khổ nhục, những bạn đồng minh sát cánh chiến đấu trên trận tuyến Việt Nam. Còn cái “Ơn” nào bằng giờ đây tôi được định cư nơi xứ Cờ Hoa, nhờ nước Mỹ nhân đạo mở rộng vòng tay cứu vớt, được sống trong không khí tự do và hưởng một đời sống sung túc.
Xong buổi lễ chúng tôi chạy qua Tiền đình Tòa Thị Chính do Liên Hội Cựu Quân Nhân tổ chức. Rất phấn khởi và hãnh diện nhìn trên các con đường cũng như những khu thương mại lớn, một rừng cờ vàng tung bay rực trời. Lá cờ của hồn thiêng sông núi, vì mất nước đã sống chết đem theo mình, vận động vào dòng chính Mỹ để được phát huy, phát triển tinh thần quốc gia không chịu khuất phục dưới sự đàn áp độc tài đảng trị của VC nên trốn chạy. Nơi nào có dân tỵ nạn là có cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay khắp năm châu bốn bể trên toàn thế giới. Tại Bắc Cali có nhóm Hậu Duệ Cờ Vàng do em Minh Huy làm trưởng nhóm, hăng say cầm cờ diễn hành trong các buổi lễ lớn, hoặc theo dõi những tù nhân lương tâm bị bắt bớ trong nước để tìm cách vận động, đấu tranh.
Giờ đây, trước Tòa Thị Chính, lá cờ bay trong nắng, sau khi làm lễ Thượng Kỳ và treo cờ rũ, chiếc máy bay ngày trước đã từng qua VN tham chiến bay rất nhiều vòng trước sự giới thiệu của MC, bà con xúc động ngẩng lên trời đưa tay vẫy chào cùng sự tham dự của chính quyền Thành Phố.
Chúng tôi tìm quán ăn ngồi nghỉ ngơi chờ 4:30 chiều vào trong Toà Thị Chính do nhóm trẻ có cái tên “Vietnamese American Roundtable” tổ chức, được sự bảo trợ của Nghị Viên Biên Đoàn. Người đến dự rất đông mặc toàn màu đen, hội trường rộng lớn đặt ghế nhiều nhưng vẫn không đủ nên số người đứng chật chung quanh. Đây là thế hệ nối gót “tre già măng mọc”, tuổi trẻ học cao, thành đạt trên xứ người hợp lực trong tinh thần đoàn kết. Các em đặt bàn thờ bảy vị tướng tá Vi Quốc Vong Thân, dâng những vòng hoa trắng trông rất trang trọng đẹp mắt, các em rất lễ phép chào hỏi người lớn tuổi và nhờ cầm cờ vàng chung ba thế hệ một tấm lòng.
Lúc đến giờ khai mạc, đoàn người ra dàn chào với 50 lá Quốc Kỳ phất cao trong khí thế mạnh mẽ. Chương trình được Thị Trưởng, Nghị Viên, Dân Biểu Thành Phố lên phát bằng khen thưởng. Sau đó chiếu những đoạn phim của thời điểm mất nước, cảnh quân dân chạy tán loạn, cảnh người vượt biển gợi nhớ ngày miền Nam Việt Nam đầy tang thương quá đau lòng. Tiếp tục những bài hát hướng về hương yêu dấu, vinh danh tên tuổi chiếu những nhân vật công trong mọi lãnh vực, xen kẽ lời phát biểu, tâm tình của các em đầy xúc động.
Tóm tắt lời phát biểu của các em:
- Kính thưa các Cô Chú, các Bác, các Ông Bà. Chúng con sinh ra nơi đây, nhưng biết nguồn gốc của mình là người VN, lý do tại sao đến đây từ Cha, Ông kể lại lịch sử đau buồn của ngày 30/4, và cũng chính cha ông đã từng bị tù đày khốn khổ. Chúng con vô cùng biết ơn thế hệ đi trước đã hy sinh quá nhiều, để chúng con có được ngày hôm nay, và luôn nhớ mãi ngày quốc hận, cũng như quyết tâm gìn giữ nối tiếp ngọn Cờ Vàng...
- Hiện nay hàng ngày con được đi học, được sự chăm sóc của ba mẹ lo từng bữa cơm no, áo ấm. Lúc nhỏ con vô tư chẳng hiểu gì, chỉ biết vui chơi học hành, lớn lên theo ba mẹ đi dự những buổi sinh hoạt Cộng Đồng, nhất là dự những hội chợ Tết, thấy người VN chung tay tổ chức, con mới cảm nhận được hai chữ “đồng hương”. Trong nhà thương quý ba mẹ vô cùng, ra ngoài kính nể lớp người đi trước đã gầy dựng một Cộng Đồng gìn giữ truyền thống văn hóa tốt đẹp của đất nước mình trên xứ người, cho nên con đã ghi tên học lớp Việt Ngữ, nhận ra tiếng Việt mình đẹp hay quá, rồi tiếp tục dạy lại các lớp nhỏ….
- Rất mong những bạn trẻ hăng hái tham gia, góp sức gầy dựng Cộng Đồng VN mỗi ngày một vững mạnh thêm, như Tết năm nay nếu không có tổ chức buổi diễn hành hoa hậu, hay dạo ngắm quang cảnh các buổi chợ thì em sẽ buồn lắm, vì nơi đó là sức sống, là hơi thở của người Việt Nam nơi chốn tha phương…”
Vẫn còn nhiều nơi:
Buổi trưa: Việt Museum tổ chức tại 2410 Senter RD, San Jose CA 95111.
Năm giờ chiều: tại Century nhóm văn nghệ của Nhạc Sĩ Hoàng Tường (Houston qua), ban Tuệ Đăng của Thu Nga, cùng đoàn trống La San.
Sáu giờ chiều tại Đền Thánh Tử Đạo, chưa kể Sacramento (thủ phủ của tiểu bang California), và nhiều tổ chức khác nữa.
Thôi thì tùy duyên tham dự, nơi nào có dân Việt Nam lưu vong tỵ nạn là có lá cờ vàng mà lớp cha anh đã tranh đấu, vận động mạnh mẽ để có được màu cờ của tự do dân chủ bay phất phới trên xứ người. Giờ đây đã 50 năm, trong mùa Quốc Hận ở đâu có tổ chức, chúng tôi đều muốn tham dự, dẫu đường xa lái từ nhà tới San Jose nếu không kẹt xe cũng mất 50 phút.
Nhờ những buổi lễ này, chúng ta được thấy lá cờ vàng, được hát bài Quốc Ca, được thắp nén hương cho các vị tướng lãnh đã can trường tuẫn tiết trong ngày 30/4/75, được có phút mặc niệm đến các anh linh hồn thiêng sông núi, hàng triệu người trốn chạy làm mồi cho cá và đổi bằng thân xác cho cướp biển, mồ chôn tù cải tạo trong rừng sâu, được thấy những bộ quân phục của người lính VNCH gợi nhớ một thời nữ sinh đi choàng vòng hoa chiến thắng, dẫu đau nhưng lại rất dịu vợi đắp lên miền dĩ vãng, được gặp gỡ đồng bào VN, những người cùng chung tâm trạng mất quê hương, tỵ nạn nơi xứ người nhưng luôn ấp ủ lá cờ vàng trong tim.
Chúng ta nhìn nhau thông cảm thì nỗi đau, sự uất ức được an ủi và ấm lòng biết bao nhiêu.
Minh Thúy Thành Nội
30 Tháng Tư/2025 (Bắc Cali)
Kissinger- làm tới chức cố vấn tối cao cho Nixon, ngoại trưởng thời Ford- đã bay qua Trung quốc hơn 100 lần , giao hảo tốt đẹp với những tên trùm đế quốc Tập cận Bình, Deng Xiaoping and Presidents Jiang Zemin, Hu Jintao.
Chưa hết, Kissinger còn ăn lương, làm cố vấn cho các doanh nghiệp Trung quốc, và Kissinger còn đả kích chính sách diều hâu của chính phủ Mỹ chống Trung quốc .
Báo chí Mỹ đều đăng tin:
* Secret trip by Henry Kissinger grew into a half-century-long relationship with China
December 1, 2023
Kissinger made more than 100 trips to China, according to the Chinese government, and was welcomed as an American it could talk to; as recently as July, he was met by China’s leader Xi Jinping.
Over the years, Kissinger met every top leader of communist China, from founder Mao Zedong to economic reformer Deng Xiaoping and Presidents Jiang Zemin, Hu Jintao and Xi.
*Kissinger has advised American businesses to take it easy on China:
19/7/2023
(Dịch) Kissinger, cựu cố vấn an ninh quốc gia, hồi tháng 7 năm 1971, đã bí mật tới Bắc Kinh để thành lập mối giao hảo với Cộng sản Tàu.
Hôm thứ Ba, Kissinger đã gặp Bộ trưởng Quốc phòng Lý Thượng Phủ tại Bắc Kinh trong khuôn khổ chuyến thăm bất ngờ tới Trung Quốc.
Kể từ khi rời nhiệm sở, người đoạt giải Nobel Hòa bình Kissinger đã trở nên giàu có nhờ cố vấn cho các doanh nghiệp về Trung Quốc – và đã cảnh cáo chính sách diều hâu chống Trung quốc.
v.v…
Trong cuốn “The Ten Thousand days War” của Michael Maclear- nhà báo Mỹ được giải thưởng Pulitzer nhờ những bài viết về chiến tranh Việt Nam- viết rằng:
Ông Thiệu nói: “… Mỹ để lại 300,000 quân ở Châu Âu sau khi Thế Chiến II đã chấm dứt 30 năm; để lại 50,000 quân ở Nam Hàn sau khi chấm dứt 20 năm. Lúc chúng tôi để Mỹ rút quân, chúng tôi chỉ yêu cầu được giúp đỡ để tiếp tục chiến đấu, không còn phải duy trì nửa triệu quân ở Việt Nam, Mỹ chỉ phải chi tiêu 1 phần 20 so với trước kia. Vậy họ còn đòi hỏi gì hơn ở chúng tôi?...” .
Báo New York Times đăng lời phát biểu của cựu TT Nguyễn văn Thiệu : ” Tôi thách lính bộ binh Mỹ chiến đấu tốt hơn người lính bộ binh Nam Việt nam mà không có B-52 đấy ” “I would challenge the United States army to do better than the South Vietnamese army without B‐52’s”.
Bình luận gia Phạm Kim Vinh- giáo sư báo chí, chính trị học và sinh ngữ; hội viên hội luật sư đoàn tòa Thượng Thẩm Sài Gòn: “Người Mỹ muốn tới Việt Nam là tới, không cần đếm xỉa đến chủ quyền của nước bạn đồng minh nhỏ bé VNCH. Khi họ rút chạy thì họ rút. Không cần chú ý tới những hậu quả tai hại sẽ xảy đến cho đồng minh của mình. Nước Mỹ có ý không ký một thỏa hiệp nào với miền Nam VN về sự đồn trú của quân Mỹ để sau này dễ bề tháo chạy “.
*Nhà biên khảo Trần Đông Phong -tác giả của nhiều cuốn sách giá trị viết về lịch sử chiến tranh Việt Nam – : "Sau khi Nixon sang thăm Bắc Kinh và ký kết bản Thông Cáo Chung Thượng Hải thì vấn đề be bờ Trung Cộng không còn cần thiết nữa, do đó vấn đề Việt Nam cũng không còn quan trọng và Việt Nam không còn có liên quan gì đến quyền lợi của Hoa Kỳ nữa ".
Sự thật không phải thế. Căn cứ vào các cuốn băng của Nixon( được công bố sau khi Nixon chết ngày 22/4/94), thêm nữa là ngày 14/6/2011, Văn Khố Quốc Gia (National Archives) đã cho giải mật (declassify) 7000 trang hồ sơ về những vấn đề của Việt Nam và Đài Loan trong đó có những mẫu đối thoại chi tiết giữa hai Ngoại Trưởng Henry Kissinger và Chu Ân Lai thì rõ ràng rằng cho dù có hay không có sì căng đan Watergate, Nixon chắc chắn sẽ không hề có một biện pháp nào trừng trị Hà nội khi chúng vi phạm Hiệp định Ba Lê . Lý do là vì Kissinger trong các ngày 9/7/71, 10/7/71, và Nixon ngày 20/6/72, đã mặt đối mặt hứa với thủ tướng TQ Chu ân Lai và Mao trạch Đông rằng Mỹ- sau Hiệp định Ba Lê- sẽ không trở lại VN cho dù Bắc Việt có chiếm được miền Nam. Không những vậy, Kissinger còn hứa tương tự- mặt đối mặt- với lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev và đại sứ Nga tại Washington là Anatoly Dobrynin.
Sử gia Ken Hughes – tác giả của các cuốn sách “Chasing Shadows: The Nixon Tapes, the Chennault Affair, and the Origins of Watergate” ; “Fatal Politics: The Nixon Tapes, the Vietnam War, and the Casualties of Reelection” – đã bỏ ra nhiều thì giờ để nghe lại các cuộn băng Nixon ghi âm dài 2,636 tiếng đồng hồ thu rõ chủ trương của Nixon bỏ rơi Việt Nam . Các máy ghi âm kết nối với microphone giấu trong Phòng Bầu dục và các phòng khác , hoạt động bất cứ khi nào nhận ra âm thanh .
Sử gia Ken Hughes đã nghiên cứu các cuốn băng mật của Nixon – sau khi y đã qua đời – ở Trung tâm Miller của Đại học Virginia, và viết thuật lại rằng :
“Trong cuộc gặp gỡ với thủ tướng Trung Cộng Chu ân Lai hôm 9/7/1971, Kissinger tỏ bày: “Nhân danh tổng thống Nixon, tôi xin thông báo với thủ tướng một cách trịnh trọng nhất rằng trước hết, chúng tôi sửa soạn rút quân hoàn toàn ra khỏi Đông Dương và ấn định ngày giờ rút quân, nếu mà có đạt được một cuộc ngưng bắn và phóng thích tù binh của chúng tôi. Thứ đến, chúng tôi sẽ để cho giải pháp chính trị của Nam Việt Nam tự diễn biến và phó mặc cho một mình người Việt tự giải quyết với nhau.”
“Trong cuộc họp hôm sau 10-7-1971, Kissinger nói thêm: “Điều chúng tôi yêu cầu là một khoảng thời gian chuyển tiếp (decent interval-– xin xem bên dưới ) giữa sự rút quân và diễn biến chính trị. Không phải là để chúng tôi có thể trở vào lại Việt Nam, nhưng chúng tôi có thể để cho dân tộc Việt Nam và dân tộc các nơi khác ở Đông Dương tự quyết định lấy số phận của họ… Hôm qua, tôi đã thưa với Thủ tướng, và tôi muốn nhắc lại rằng, nếu sau khi quân đội Mỹ rút lui hoàn toàn, mà các dân tộc Đông Dương thay đổi chính quyền của họ, Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.”
Trong cuộc gặp gỡ lần nữa với thủ tướng Chu ân Lai hôm 20/6/72, Kissinger nói : “Nếu chúng tôi sống chung được với một chính quyền cộng sản Trung Hoa, chúng tôi sẽ chấp nhận được ở Đông Dương”. Ngoài ra Kissinger cũng gián tiếp cam kết với Chu Ân Lai Hoa Kỳ không có ý định tiêu diệt hoặc đánh bại cộng sản Bắc Việt ” chúng tôi đã không có ý định tiêu diệt họ hoặc ngay cả đánh bại họ..”.
( “Decent interval “hàm ý rằng Kissinger muốn có một khoảng thời gian coi được giữa việc rút quân Mỹ ra khỏi VN và chiến thắng tất yếu sẽ đến của CS để Mỹ sẽ không bị đổ lỗi cho việc thất trận; Mỹ sẽ không quan tâm nếu sau này Bắc Việt tấn công nam Việt nam, miễn là không tấn công ngay sau khi Mỹ vừa rút khỏi Việt nam ).
***TS Nguyễn Tiến Hưng: Chỉ hai ngày sau khi mất Đà Nẵng (29/3/1975), TT Nguyễn Văn Thiệu
hỏi trực tiếp Đại tướng Cao Văn Viên: "Hiện giờ này, đạn dược thực sự còn bao nhiêu?"
"Thưa Tổng thống, đạn trong cả bốn kho dự trữ chỉ còn đủ cho 14 đến 20 ngày."
***Sau khi Mỹ rút, viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hoà:
Tài khoá 1973: hai tỷ mốt (2,l tỷ)
Tài khoá 1974: một tỷ tư (l,4 tỷ)
Tài khoá 1975: bảy trăm triệu (0,7 tỷ)
Vỏn vẹn bẩy trăm triệu (0,7 tỷ) – trong đó cơ quan DAO của Mỹ đã ngốn hết 300 triệu . Và trong buổi họp kín ngày 12/ 3/75, đảng Dân Chủ ở Thượng và Hạ Viện đã phán quyết: Không cấp thêm viện trợ quân sự cho VNCH nữa.
So sánh với người lính Mỹ, trong thời gian 1966-71, ngoài tiền bạc dồi dào, họ còn được trang bị các vũ khí tối tân, được yểm trợ bởi từng dàn các phản lực cơ siêu âm, mấy ngàn chiếc trực thăng đủ cỡ. Ngoài khơi, lại còn có Đệ Thất hạm đội .
Quân phí của người lính Mỹ : Năm 1967: 485,600 lính Mỹ – 20 tỷ đô la. Năm 1968: 536,100 lính – 26.5 tỷ đô la. Năm 1969: 475,000 lính – 29 tỷ đô la.
Để chống lại chiến thuật đánh biển người thí quân của Cộng sản, người lính Mỹ có các loại oanh tạc cơ hiện đại như B52, Phantom F4, Thunder chief F5, Intruder A6…Còn người lính VNCH chỉ được viện trợ cho các phi cơ khu trục cánh quạt Skyraider và phản lục cơ khu trục nhỏ xíu F5 cổ lỗ sĩ – mà chẳng có phi công Mỹ nào còn dám ngồi trong những chiếc “quan tài bay” đó !
* Theo tài liệu trên trang mạng cia.gov thì ngoài những vũ khí của Liên xô và Tàu cộng, Cộng sản Hà nội còn xử dụng cả những vũ khí sản xuất ở Đông Đức , Ba Lan, Hung gia Lợi , Bulgaria, Czech, Rumania, Bắc Hàn …
* Theo nhà biên khảo quân đội Nguyễn Đức Phương, CSBV có toàn các thứ vũ khí hiện đại :
“Các B-40, B-41, các bích kích pháo 61mm, 82mm, và 120mm , hỏa tiễn SA-7 bắn trực thăng và phi cơ , các loại trọng pháo cơ giới 85mm D-44; 122mm D-74 và D-30 canh tân; đại pháo 130mm và 152mm D-20 . Thuỷ xa PT-76, chiến xa BTR-50, BTR85 và T-54 , các loại chiến xa T-70 trang bị đại bác tự hành SU-76mm và chiến xa Joseph Staline 2 gắn đại bác tự hành ISU-122mm. Các loại pháo cao xạ cơ giới 23mm, 37mm, 80mm và 100mm, hoả tiễn địa không SA-2, SAM-7 của Liên Xô.
” Không quân được Trung Cộng cung cấp MIG-15 và MIG F-17, Liên Xô cung cấp MIG-19 và MIG-21. Ở thời điếm chiến tranh cao độ, Cộng Sản có hơn 2,000 hoả tiển SA-2, SAM-7 và 200 phi cơ MIG các loại.
” Hải quân được Trung Cộng cung cấp hàng trăm pháo hạm Swatow và Shanghai; Đông Đức yểm trợ cho khinh tốc đĩnh; Liên Xô viện trợ loại pháo hạm Komar và phóng lôi PT-4 và PT-6 “.
Nếu so sánh pháo binh CSBV với chủ lực đại pháo 130 ly bắn xa 27 cây số, các dàn hỏa tiễn 122 ly cơ động, bắn hàng loạt còn pháo binh VNCH với chủ lực đại pháo 105 ly chỉ bắn xa 10 cây số, 155 ly chỉ bắn xa 16 cây số và một số rất ít pháo tự hành 175 ly thì rõ ràng pháo binh CSBV hơn hẳn.
Nếu so sánh thiết giáp, ta cũng thấy tương tự, tăng CSBV T- 54, T- 59 với pháo 100 ly hơn hẳn tăng VNCH M 41 với pháo 76 ly và M 48 với pháo 90 ly, các loại súng chống xe tăng mạnh mẽ B40, B41,
rồi tên lửa phòng không tầm nhiệt CSBV SA 7 tối tân có thể tiêu diệt dễ dàng các chiến đấu cơ A 37 hay F 5, trực thăng UH1A.
Theo Không quân Nguyễn Hữu Thiện, Melbourne, Australia : "Tất cả mọi loại phi cơ do KQVN sử dụng đều không được trang bị hệ thống điện tử chống ra-đa địch (ECM: electronic counter-measures) như các chiến đấu cơ của Hoa Kỳ, vì thế khi hoạt động tại những vùng do địch kiểm soát, rất dễ dàng trở thành mục tiêu cho hỏa tiễn SAM và các loại cao xạ hướng dẫn bằng ra-đa ".
Trong sách “Khi đồng minh tháo chạy” của Ts. Nguyễn Tiến Hưng :
"Sau khi thị sát chiến trường và họp với phía Việt Nam, tướng Weyand trở về báo cáo cho Tổng trưởng quốc phòng. Ngày 5-4-1975, đang khi bay về Washington, thì ông được lệnh đổi hướng bay thẳng về Palm Springs phúc trình cho Tổng Thống Ford và Ngoại trưởng Kissinger. Nghe thuyết trình của Weyand xong, Kissinger đi họp báo, có Ron Nessen, Phụ tá báo chí Tổng Thống cùng đi theo. Trên đường tới Trung tâm báo chí, Nessen kể lại lời Kissinger nguyền rủa:
“Sao chúng không chết phứt cho rồi? Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống dai dẳng hoài “. (Why don’t these people die fast?” He moaned in the car. “The worst thing that could happen would be for them to linger on”
Cuối năm 1979, tuần báo Der Spiegel số 50 đã đăng bài phỏng vấn cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, do hai biên tập viên Angels, John K. và Lohfeldt, Heinz P. thực hiện:
Cựu TT Nguyễn Văn Thiệu: Tôi bảo ông tướng Haig thế này: “Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lãnh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đã ký kết thành công một hiệp định hòa bình với Liên Xô không?”
GS Lê Xuân Khoa : “Ngày 17/09/1972 quân đội VNCH lấy lại được Quảng Trị, tinh thần lãnh đạo Miền Nam lên cao. Nhưng chỉ ba tuần sau, tinh thần lại bị rúng động thật mạnh – vì thất bại của hòa đàm.
” Tại sao thất bại? Vì trong buổi họp với ông Lê Đức Thọ (8/10/1972) ông Kissinger đã nhượng bộ điểm chính yếu của bốn năm mật đàm: Mỹ đơn phương rút quân nội trong hai tháng, quân đội Bắc Việt được đóng lại Miền Nam – và đóng theo cách đốm da beo.
“Giải pháp ‘da beo’ đã giúp quân đội Miền Bắc có một lợi điểm chiến thuật thật lớn: đó là có thể chọn nơi, chọn ngày và chọn giờ để tấn công. Khi tấn công thì có thể tập trung quân để ở thế thượng phong. Đang khi đó, quân đội Miền Nam phải trải ra thật mỏng trên toàn lãnh thổ và một biên giới gần 700 dặm “.
Nhà bỉnh bút quân sử thế giới nổi tiếng Louis A Fanning: ‘ Sau hiệp định Paris 1973, hơn 300,000 bộ đội Cộng sản được người Mỹ bỗng dưng tự tác cho ở lại trên lãnh thổ của nước khác. Ðó là Miền Nam VN, một quốc gia độc lập, có chủ quyền, quốc hội và không hề là thuộc địa hay các tiểu bang của Hoa Kỳ.
Trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Tường An trên RFA, luật sư Lê Trọng Quát- cựu dân biểu , cựu Quốc vụ khanh nhận định:
“Điều khuất tất nhất trong Hiệp định Paris là không có nói chứ không phải là không nói rõ. Hoàn toàn không nói về sự tồn tại của trăm ngàn cán binh cộng sản ở miền Nam Việt Nam, cái Hiệp định đó đã im lặng. Đó là sự nhượng bộ to lớn của Hoa Kỳ để cho Việt cộng đồng ý ký Hiệp định…Khi tiếng súng vừa chấm dứt vào lúc 1.00 giờ sáng ngày 27/1 thì Cộng sản đã bắt đầu vi phạm Hiệp định bằng cách họ không những không ngưng tiếng súng mà vượt ra khỏi vùng họ đang chiếm đóng để chiếm cứ thêm đất đai và dân chúng ở những vùng đó “.
Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên thì vào năm 1972, kể cả cuộc Mùa Hè Đỏ Lửa thì tại Miền Nam có tất cả 2072 vụ tấn công, tuy nhiên sau khi Hiệp Định Ba Lê được ký kết thì trong năm 1973 có đến 2980 vụ tấn công, tức đã gia tăng trên 30 phần trăm.
*** Theo nhà nghiên cứu quân sự Nguyễn Đức Phương trong bài viết "Việt Nam Cộng hòa 1975, nguyên nhân sụp đổ" thì một trong các nguyên nhân Quân lực Việt Nam Cộng hòa thất bại là vì được "tổ chức rập khuôn theo lối Mỹ, một lính tác chiến có năm người yểm trợ như tiếp liệu, quân nhu, quân y, hành chính… Quân số tuy đông nhưng trên thực tế lính tác chiến chưa tới 200 ngàn người, thành phần không tác chiến (non combatant) chiếm khá nhiều, Địa phương quân và Nghĩa quân thì chỉ đủ sức cầm cự chờ lính bộ binh của Sư đoàn".
Kissinger trong các ngày 9/7/71, 10/7/71, và Nixon ngày 20/6/72, đã mặt đối mặt hứa với thủ tướng TQ Chu ân Lai và Mao trạch Đông rằng Mỹ- sau Hiệp định Ba Lê- sẽ không trở lại VN cho dù Bắc Việt có chiếm được miền Nam.
Không những vậy, Kissinger còn hứa tương tự- mặt đối mặt- với lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev và đại sứ Nga tại Washington là Anatoly Dobrynin.
"Miền nam bị bức tử vì Kissinger, một tên trí thức xuẩn động ngây thơ, có đầu óc thực dân kiêu căng thời Trung cổ. Hắn vì muốn thoả mãn nhu cầu cho bọn siêu quyền lực mà phần lớn gốc Do Thái đang thao túng nước Mỹ và thế giới, cho lũ phản chiến đa số bị bệnh tâm thần vì đồng tình luyến ái, hút sách, ảo vọng , nên đã hại không biết bao nhiêu người đã chết, tan nhà, mất nước trong suốt 34 năm qua, tới nay càng thêm đau khổ tận tuyệt trong cảnh nước mất nhà tan, dân tộc bị Hán hoá tuyệt chung.
..Cũng từ đó để chúng ta, những người dân đen đến lúc phải tỉnh mộng, chấm dứt việc giao phó trách nhiệm đối với non nước và sinh mệnh mình cho bất cứ ai không xứng đáng và tín nhiệm, dù họ đang nhân danh bất cứ một thứ gì. Càng nhớ càng thêm thê thảm tủi nhục cho chính bản thân mình, một dân tộc nhược tiểu, luôn bị bán đứng và dầy vò trong suốt thế kỷ, qua hai cái vỏ quốc gia rồi cọng sản. Bao chuc năm rồi nhưng không bao giờ quên được lời tuyên bố chát chua máu lệ của ông Trần Kim Phượng, đại sứ VNCH tại Hoa Thịnh Ðốn ngay lúc xe tăng Bắc Việt tiến vào Dinh Ðộc Lập trưa 30-4-1975 :” Làm đồng minh với Mỹ chỉ có chết, tốt hơn nên làm bạn với cọng sản , ít ra còn được che chở và giúp đỡ “.Ðây là lời cảnh tỉnh tha thiết nhất cho những ai còn muốn nhờ ngoại bang để quang phục đất nước."
Lãnh đạo VNCH đã bỏ cơ hội quý giá chơi với Trung Quốc năm 1975 để tự cứu quân dân tránh đầu hàng vô điều kiện. Lỗi tại các TT VNCH cố bám vào kẻ đâm sau lưng đồng minh không sáng suốt như Hoàng thân Sihanouk chơi với TQ thay vì chơi với Mỹ để cứu Kampuchia khỏi sa vào tay Cộng Sản.