Hôm nay,  

Chiếc Hồ Trên Đá

19/12/202500:00:00(Xem: 421)

Molokini Crater_Ảnh Tường vi Lê
Ảnh minh họa từ Lê Tường-Vi;  Molokini Crater.
 
Tác giả là cư dân San Diego, đã hai lần thắng giải Viết Về Nước Mỹ. Năm 2001, với bài "Hoa Ve Chai", ông nhận giải danh dự. Ba năm sau, với bài viết "Giọt Nước Mắt," kể về Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam tại tiểu bang New Jersey do một kiến trúc sư Việt Nam vẽ kiểu, ông nhận giải chung kết Viết Về Nước Mỹ 2004. Ông tiếp tục viết bài và tham gia sinh hoạt giải thưởng VVNM hàng năm. Mùa lễ Tạ Ơn năm nay, tác giả gửi đến Viết Về Nước Mỹ một loạt 5 bài bút ký thấm đậm tình người từ trong gia đình đến những người thân quen của mình. Sau đây là bài thứ hai: “Chiếc Hồ Trên Đá”.

TG Sapy Nguyễn Văn Hưởng
Tác giả Sapy Nguyễn Văn Hưởng
 
***
 
Một chiếc hồ con nằm lặng yên trên đá,
Mà trong mắt trẻ thơ là cả vũ trụ xanh...
 
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
 
Tiếc thay, suốt bốn năm liền California oằn mình trong hạn hán, ảnh hưởng đủ đường đến đời sống cư dân. Không ai biết bao giờ tuyết và mưa mới trở lại như xưa để thảm cỏ trước nhà có cơ hội hồi sinh, để màu xanh công viên thôi lụi tàn.
 
Tôi vẫn nhớ hôm tiểu bang ban bố tình trạng khẩn cấp vì thiếu nước, nhà tôi nhận được một cú điện thoại kêu gọi tiết kiệm. Chồng tôi vui vẻ trả lời:
 
- Thưa cô, nhờ tiết kiệm nước mà sức khỏe vợ chồng tôi tốt lên nhiều lắm!
 
Giọng cô nhân viên ngạc nhiên:
 
- Dạ... ông vui lòng giải thích rõ hơn?
 
Nhà tôi thản nhiên đáp:
 
- Vì ngày nào vợ chồng tôi cũng tới phòng tập thể dục, tập xong thì tắm luôn ở đó!
 
Còn Thành, em chồng tôi, tếu táo khoe danh hiệu "vô địch tiết kiệm nước bang Cali":
 
- Chị Hai biết không, hồi trước một ngày em đánh răng ba lần. Giờ thì... ba ngày mới đánh một lần! Vậy đủ tiết kiệm chưa?
 
Điều khiến tôi buồn nhất không phải hóa đơn tiền nước, mà là mất trắng bốn mùa hoa Tần Ô. Ở San Diego, loài hoa ấy mọc khắp nơi: chỗ đất hoang, bên lề xa lộ, dọc những sườn đồi nắng cháy. Ngay sau nhà tôi, nơi lưng chừng đồi, cứ đầu tháng Hai là những bụi Tần Ô nhú xanh non; sang tháng Ba hoa nở vàng rực kéo dài suốt gần ba tháng. Màu hoa dân dã và đầy sức sống ấy từng làm lòng tôi rộn ràng; tôi rủ không biết bao nhiêu bạn bè cùng đến ngắm. Mất mùa hoa là mất đi những buổi rong chơi với các cháu, mất cả những khung hình tuổi thơ tôi treo trong nhà, giữ làm kỷ niệm trong album. Cứ nghĩ đến đó, tôi lại buồn đến tê tái lòng.
 
Vốn say mê chụp ảnh, tôi xem mỗi mùa hoa đến như món quà riêng của đất trời dành cho bà cháu tôi. Từ khi các cháu còn bé xíu, chúng đã trở thành "người mẫu" trong những buổi dạo đồng hoa. Mỗi lần đi ngắm hoa là một ngày đầy ắp tiếng cười, tay nắm tay, váy áo tung bay giữa trời hoa vàng, mây trắng. Mất mùa hoa nghĩa là mất luôn những buổi rong chơi và cả những khung hình rực rỡ nơi tuổi thơ đang cười tươi giữa nắng sớm lung linh. Những tấm ảnh ấy như một thứ quý giá nho nhỏ lưu giữ kỷ niệm, khiến tôi càng tiếc nuối khi mùa hoa vụt qua.
 
Ngoài hoa Tần Ô, San Diego còn nhiều cảnh đẹp làm say đắm lòng người. Công viên Balboa là một ốc đảo xanh giữa phố thị, với thảm cỏ mượt mà, hồ nước phẳng lặng. Rồi còn bao nhiêu viện bảo tàng, vườn Nhật, vườn xương rồng hòa quyện cùng kiến trúc Tây Ban Nha cổ kính. Mỗi bước chân dạo quanh như lạc vào một thế giới khác, vừa thư thái vừa gợi hoài niệm. Thành phố cũng nổi tiếng với những bãi biển, mỗi nơi một vẻ: La Jolla Cove với biển xanh như ngọc, vách đá ôm lấy sóng bạc; Mission Beach rộn ràng tiếng cười với xe đạp nối đuôi nhau chạy dọc bờ cát trắng; Sunset Cliffs, chỉ cần ngồi yên trên mõm đá, đôi chân thong thả đong đưa, mắt ngắm nhìn mặt trời lặn là lòng dịu hẳn lại.
 
Từ suốt mấy năm nay, một nơi cách nhà tôi chừng chục dặm đường đã trở thành chốn tôi hầu như tuần nào cũng ghé một hai lần: bán đảo Coronado. Muốn sang bên đó, tôi phải lái xe qua một cây cầu dài vắt ngang vịnh San Diego như dải lụa bê tông uốn cong mềm mại trên mặt nước. Đến giữa cầu, chiếc xe như được nâng lên để ngắm toàn cảnh thành phố với những tòa cao ốc lấp lánh và dòng nước êm đềm xanh trong mênh mang; đủ loại thuyền lướt qua, thuyền buồm, ca nô, du thuyền và thỉnh thoảng vài chiếc tàu hải quân hùng dũng diễn hành trước bao con mắt ngắm nhìn. Gió biển nhè nhẹ thổi lên làm mát cả thân người lẫn tâm hồn.
 
Qua khỏi chân cầu, tôi phải lựa chọn: rẽ vào công viên Tidelands với bãi cỏ xanh mướt, hàng cọ thẳng tắp và con đường xi măng sạch bóng để dạo bộ, hòa mình cùng trẻ con và các cặp đôi tận hưởng nắng vàng, gió mát, hoặc cứ thế chạy thẳng ra Coronado Beach.
 
Mấy lần đầu tôi đến rồi đi, biển Coronado không để lại ấn tượng đặc biệt nào; thậm chí còn khiến tôi khó chịu vì từ bờ xuống mé nước phải băng qua một bãi cát khô, nhiều đoạn dài cả trăm thước. Mãi sau một chuyến sang Hawaii, vợ chồng tôi mới khám phá ra thú vui đi chân trần trên cát, và từ đó nhìn Coronado bằng đôi mắt khác, như nhận ra một món quà bất ngờ vốn đã có từ lâu.
 
Coronado, một bãi cát dài quay ra Thái Bình Dương, bị căn cứ hải quân chặn hai đầu nên chỉ còn khoảng hai dặm dài cho người ta vui chơi; cát trắng mịn pha ánh kim trải như dải lụa, biển xanh ôm lấy đường chân trời, xa xa mái ngói đỏ của khách sạn Del Coronado nổi bật như lâu đài cổ tích. Đứng trước tòa nhà ấy, tôi nghĩ nơi này đã chứng kiến bao dấu chân người đời, từ thuở ông cha tôi còn đội khăn đóng đến hôm nay, một người đàn bà Việt xa xứ mới chịu đặt chân trần xuống cát để cảm nhận hết vẻ quyến rũ.
 
Mỗi buổi chiều, ánh hoàng hôn nhuộm đỏ cả bầu trời lẫn mặt biển; lớp cát khô ngày trước từng làm tôi ái ngại, giờ như đang xoa bóp dưới gan bàn chân. Càng đến gần mé nước, cát càng mềm mại, mát rượi, len vào từng kẽ chân và cả vào tâm hồn. Mỗi lần đặt chân lên cát, tôi thấy như được rửa sạch những lo toan nhỏ nhặt; mỗi hạt cát khắc một ký ức dịu êm vào lòng và gợi tôi nhớ về tuổi thơ, những chiều dắt trâu ra đồng, chân lội bùn mát lạnh in dấu trên mặt đất.
 
Từng bước trên cát Coronado như đưa tôi trở về, không hẳn vì cảnh vật giống nhau, mà vì cái gần gũi lặng thầm giữa thiên nhiên và lòng người. Mỗi chiều là một bức tranh mới: đôi tình nhân ôm nhau, em bé nhảy sóng, người chụp ảnh bên hàng dừa; khi mặt trời khuất, ánh đèn flash chớp lên như cố lưu giữ thêm vài khoảnh khắc cuối ngày.
 
Bãi biển Coronado thoai thoải hiền hòa; từ trẻ nhỏ đến người già, người biết bơi hay không, ai cũng có thể nô đùa với sóng hoặc nằm dài trên cát phơi nắng. Sau khi quen đi chân trần, tôi vẫn thấy quanh mình có những người "quê mùa" như tôi ngày trước, khó chịu chỉ vì vài hạt cát chui vào giày; nhưng rồi chính những hạt cát ấy lại đem về cho tôi nhiều niềm vui và kỷ niệm.
 
Những sắc vàng của hoa Tần Ô mà tôi từng bấm máy lưu giữ cho mấy đứa cháu nội nay đã nhường chỗ cho biển xanh, cát trắng và tiếng reo vui rộn ràng của hai đứa trẻ lớn lên bên tôi. Không đứa nào sợ nắng như bà, cũng chẳng ngại gió; ra đến biển, chúng như tan vào sóng: chạy không biết mỏi, miệng cứ thế hét vang, nhảy ùm xuống nước, rồi ngồi bệt nhặt vỏ sò, đuổi theo chim hải âu, tìm ông nội, thậm chí đòi chạy đua cùng ông.
 
Coronado gợi tôi nhớ những bãi biển quê nhà: Vũng Tàu với con đường cát trắng thoai thoải, Nha Trang với hàng dừa nghiêng bóng, Đà Nẵng chiều xuống rì rào tiếng sóng. Ở mỗi nơi màu nước, loại gió khác nhau, nhưng đều có điểm chung: gió mằn mặn thấm vào da thịt, tiếng sóng như nhịp tim biển cả, và hạt cát dưới chân lấp lánh như vụn vàng mặt trời. Giữa Coronado, tôi vừa thấy mình đứng ở một miền đất mới, vừa chạm lại những mùa hè đã xa.
Linzy, vốn quen xưng mình là "chị Hai", đứa cháu nội đầu lòng, sinh ra đúng vào năm tôi tròn sáu mươi. Sự vào đời của cháu ngày ấy là một nỗi lo lớn không chỉ riêng vợ chồng tôi mà cả bên sui gia cũng phập phồng theo dõi từng ngày. Linzy chỉ nằm trong bụng mẹ sáu tháng mười ba ngày; hình hài đỏ hỏn, bé xíu, nặng vỏn vẹn một ký năm gram. Cháu được đặt vào lồng kính như cái bụng mẹ bằng thủy tinh để giành giật từng hơi thở với sự sống. Suốt hai tháng trời cả nhà chỉ còn biết âm thầm cầu nguyện, mong sao chút sinh khí mong manh kia đủ vững vàng để bám trụ với cuộc đời. Mãi đến ngày được phép đón cháu về, ai nấy mới thở phào nhẹ nhõm như vừa vượt qua một trận bão lớn. Vậy mà giờ đây cháu đã tung tăng trên bãi biển, vừa cười vừa thách đố:
 
- Ông nội bắt con đi!
 
Còn tôi tha hồ bấm máy, lưu lại từng khoảnh khắc để mai này, khi các cháu lớn lên, chúng biết rằng đã từng có ông bà nội bên cạnh. Cái túi vải tôi luôn đeo trên vai mỗi lần ra biển chẳng có gì nhiều: áo quần khô, khăn tắm, nước uống, bánh mì, bánh ngọt, không dư thừa nhưng đủ cho một buổi dạo biển ấm áp. Mỗi lần nhìn cháu chạy nhảy, lòng tôi như tan chảy; tôi biết mình may mắn khi còn được chứng kiến và giữ lại những khoảnh khắc ấy.
 
Một hôm thấy tôi cầm vài chiếc lông chim hải âu đen trắng, Lya, cái tên bố mẹ đặt với ý nghĩa Love, You, Always, tròn xoe mắt hỏi:
 
- Bà nội nhặt mấy cái lông chim này làm chi vậy?
 
Tôi mỉm cười:
- Để khi cần vẽ mấy nét nhỏ thiệt nhỏ lên mấy bức tranh bà đang tô trên tường nhà.
 
Lya thích thú cầm lấy, rồi lượm thêm những mảnh sò bé tí, dúi vào tay tôi bảo cất vô túi. Có lần tôi nhặt được một chai rượu nhỏ, ngắt vài bông hoa dại bỏ vào, đưa cho cháu gọi là "bình bông du mục"; Lya ôm bình hoa cười khúc khích như nhận một món quà kỳ diệu.
 
Còn Linzy thì thích đắp cát lên người, múc nước đổ vào hố cát, vẽ số vẽ chữ bằng tay, những con số và chữ cái tôi mới dạy ở nhà. Một buổi chiều, khi đang đi dọc theo dãy đá, Linzy reo lên:
 
- Nội ơi, con thấy một cái baby lake!
 
Tôi nhìn theo ngón tay cháu: một vũng nước nhỏ trong veo nằm gọn trên phiến đá, khuất sau bụi cỏ. Trong mắt cháu đó là cả một cái hồ bí mật. Ba bà cháu rửa tay, rửa sò, hai đứa cháu nhúng cả đôi bàn chân bé xíu vào; Linzy mắt sáng rỡ:
 
- Linzy là người đầu tiên tìm ra cái hồ baby bí mật này! Từ nay con khỏi cần đứng chờ rửa chân ở vòi nước nữa nghen nội!
 
Lya phụng phịu:
 
- Chị Ba cũng thấy giống như chị Hai mà!
 
Tôi xoa dịu:
 
- Vậy cái "baby lake" này là của cả hai: chị Hai lẫn chị Ba.
 
Nhìn hai chị em hồn nhiên cười khúc khích, dẫm chân xuống vũng nước nhỏ trong đá, lòng tôi chợt nhớ tới một câu hát cũ khiến lòng se thắt: Bây giờ trong cái nón sắt của anh để lại trên bờ lau sậy này, chỉ có một con ễnh ương mượn vũng nước mưa đọng trong đó làm hồ. Trong cái nón sắt của anh bây giờ vẫn có đủ trời, vẫn mây hiền hòa trôi và bốn mùa vẫn về. Xuân muôn thuở dịu dàng, Đông rét lạnh, Thu khi xám buồn, khi rực vàng nắng quái, Hạ cháy lửa nung trời... Chiếc hồ nhỏ trong chiếc nón sắt bỏ quên giữa bờ lau sậy có thể là dấu tích cuối cùng của một người lính không trở về; còn cái hồ nhỏ hôm nay trên bãi đá Coronado là mảnh trời tuổi thơ lấp lánh, nơi sự sống tiếp tục nảy mầm qua tiếng cười của trẻ con, hai đứa cháu tôi.
 
Tôi không biết người chiến sĩ đã để lại chiếc nón ấy giờ ở đâu, có thể chỉ còn là một cái tên khắc trên bia đá. Nhưng tôi biết chính sự hy sinh lặng thầm của họ đã vun bồi cho buổi chiều bình yên này, với đứa cháu ôm "bình bông du mục" cười khúc khích, như thể cả thế giới chỉ còn lại niềm vui. Lòng tôi bỗng nghẹn lại trước hình ảnh quá khứ và hiện tại gặp nhau trong một khoảnh khắc mỏng manh, nhưng đầy ắp ơn nghĩa và tình người.
 
Chiếc hồ trong chiếc nón sắt và chiếc hồ trên bãi đá, hai hình ảnh, hai giai đoạn lặng lẽ nối nhau qua những thế hệ. Và tôi, người từng đi qua khói lửa, giờ bên cháu mình, thấy lòng ấm lại. Trong ánh hoàng hôn nhạt màu, tôi thầm cảm tạ Ơn Trên và gọi tên những người vô danh đã để lại cho đời những vũng nước nhỏ để cháu con mai sau có nơi in dấu bàn chân đầu đời. Bãi biển Coronado, trong khoảnh khắc ấy, hiện lên như một phép ẩn dụ cho những điều quý giá âm thầm ẩn mình giữa đời sống, chờ một bàn tay nâng niu để bừng sáng.
 
 
Sapy Nguyễn Văn Hưởng
 
Chú thích của TG:Viết theo lời kể của bà nội để riêng tặng vợ tôi và hai đứa cháu nội.
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 473,127
Sáng cuối tuần, trời trong xanh, nắng rải vàng khắp những hàng cây dọc bãi đậu xe trước khu chợ Á Đông. Bố chở mẹ và tôi đến quán phở quen thuộc trong khu thương xá. Quán nhỏ, treo vài tấm tranh phố xưa, lúc nào cũng ồn ào tiếng nói cười của những người Việt xa quê. Chúng tôi ngồi chung một bàn, bát phở nghi ngút khói. Bố thong thả nhấp cà phê, thỉnh thoảng pha trò làm mẹ bật cười, còn tôi cũng cười theo, thấy lòng mình ấm áp. Hạnh phúc, đôi khi rất bình thường và gần gũi. Ăn xong, bố để hai mẹ con xuống siêu thị rồi ngồi chờ ngoài xe, mở YouTube, mở báo online xem tin tức. Bố lúc nào cũng say mê nghe ngóng tình hình nước Mỹ hằng ngày, như là một chính trị gia, hay một công dân yêu nước thực thụ.
Thông là loại cây thường không mọc ở nơi đồng bằng trù phú, nơi mưa thuận gió hòa. Nó được gieo vào giữa sỏi đá khô cằn, chịu dãi dầu gió tuyết, nắng gắt hay bão giông. Vậy mà, năm tháng trôi qua, thân nó vẫn vươn cao, ngọn lá xanh biếc, đứng hiên ngang giữa đất trời. Người xưa thường dùng hình ảnh cây thông để nói về sự kiên cường, bất khuất, không cúi đầu trước nghịch cảnh. Những khi gặp phải những khó khăn, đối mặt với những thử thách, tôi lại nhìn thấy gia đình tôi, và đặc biệt Ba tôi, một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trong hình ảnh những cây thông ấy. Lịch sử nghiệt ngã đã khiến đất nước tôi rơi vào tay cộng sản, người dân quê tôi bị đọa đày. Nước mất thì nhà tan nhưng nhờ niềm tin vào Thiên Chúa, chúng tôi đã đứng vững, đã vươn lên, và đã tìm thấy một bầu trời mới để tiếp tục sống và phụng sự.
Bà thong thả bước vào nhà, thưởng thức ly cà phê thơm mùi bơ đậu phụng. Đó là bí quyết pha chế của gia đình ông Hữu lúc mở quán cà phê căn nhà để dư sau 1975. Lúc mà ông trở thành tên “vô lương mất dạy, buôn bán sáu mặt” (tiếng lóng: Nhà giáo không được đi dạy, không có lương, buôn bán sặc máu). Trước mặt bà là lát mì kèm với phô mai Đầu Bò dùng điểm tâm kiêm luôn buổi trưa, ăn mà tưởng nhớ tới công lao nhiều người cho mình no bao tử sáng nay, bà ăn trong sự biết ơn nên cảm nhận được cái ngon của ly cà phê, của bánh mì, của miếng phô mai.
Thử tưởng tượng nếu không có mùa xuân, mùa đẹp nhất trong năm, thế gian này sẽ ra sao nhỉ? Sẽ không còn vô số loài hoa đẹp nở rộ vào mùa xuân, sẽ không có cảnh những đàn chim di cư về những miền đất ấm. Những cánh đồng hoa dại ngút ngàn sẽ biến mất. Những rừng cây trơ trụi lá ngủ đông sẽ không bừng tỉnh để mầm non đâm chồi và nhú lộc. Các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ và họa sĩ sẽ mất đi cảm hứng sáng tác. Nhiệt độ chuyển đột ngột từ lạnh ngắt sang cái nóng của mùa hè sẽ làm cơ thể con người không kịp thích nghi, mọi thứ sẽ bị đảo lộn, rối tung. Cuộc sống sẽ chẳng còn thú vị. Mùa xuân quan trọng biết bao, vậy mà có đôi lần tôi đã thầm nhủ mùa xuân ơi, đừng đến với tôi nữa làm gì.
Mỗi người có một thú tiêu khiển khác nhau. Người thì thích xem phim. Kẻ thì mê đọc sách. Người khác thì khoái nghe nhạc. Cũng có người dùng thể thao là niềm vui mỗi ngày. Thú tiêu khiển giúp chúng ta thấy cuộc sống vui hơn. Riêng tôi, viết lách là đam mê không thể bỏ được. Tôi viết đủ thứ từ âm nhạc, tiểu thuyết, thơ và viết cho chương trình Viết Về Nước Mỹ (VVNM) của Việt Báo.
Lúc còn ở Việt Nam, tôi nghe nhiều lời đồn về nước Mỹ. Thiên hạ đồn dân Mỹ có đời sống sung sướng lắm. Ai cũng có nhà lầu xe hơi đầy đủ. Tiền của ê hề mặc tinh mà phung phí. Cuộc sống thượng luu phong phú như vậy nhà nào cũng đầy đủ tiện nghi du lịch ăn uống xả giàn, lúc nào củng tiền đô đầy túi xài tiền quăng qua của sổ rớt đất chẳng hề cong lưng mà lượm. So với Bạch công tử, Hắc công tử của Việt Nam thì thua xa, nói ra chỉ mắc cỡ mà thôi. Còn thua thiệt nhiều. Đối với xã hội Mỹ, dân Mỹ một hai ngàn đô mà nhằm nhò gì, chuyện nhỏ, không đáng khom lưng lượm chi cho mỏi lưng.
Di dân sau năm 1975 là một hành trình di dân chính trị trong lịch sử Việt Nam. Hàng trăm ngàn người đã liều mình băng qua Campuchia, tìm đường đi vào Thái Lan. Hoặc họ vượt biển bằng những con thuyền gỗ mong manh, không bản đồ, không lương thực đầy đủ, không phương tiện liên lạc hiện đại. Họ được gọi là “bộ nhân” và “thuyền nhân,” hai cụm từ đã trở thành biểu tượng của một giai đoạn lịch sử của Việt Nam và của cả thế giới.
Năm ngoái tôi đã mất người con trai, con tôi ra đi ở lứa tuổi bốn mươi, lứa tuổi mà Ông Khổng Tử dạy”Tứ thập nhi bất hoặc”. Lứa tuổi mà lẽ ra người đàn ông đang gặt hái thành quả của đời mình, xây dựng hạnh phúc gia đình, trở thành chỗ dựa cho cha mẹ già. Thế nhưng con tôi không kịp đi tiếp con đường ấy, đã ra đi quá sớm, để lại cho tôi một khoảng trống không bao giờ lấp đầy được. Từ ngày con mất, tôi vẫn sống nhưng không trọn vẹn niềm vui nào. Có những lúc ngồi một mình , tôi nghe, hình như tiếng con trai vẫn đâu đây. Từng bước chân quen thuộc, tiếng con gọi “Mẹ ơi…” Nhưng tất cả đều là ký ức. Đêm về, tôi trằn trọc, nước mắt thấm gối, tôi thầm gọi tên con... Mấy hôm nay, tôi nghe và đọc nhiều tin về một anh thanh niên ba mươi hai tuổi, bị bắn chết. Lòng tôi quặn thắt. Tôi tưởng tượng đến cha, mẹ của cậu ấy, đến người vợ trẻ, đến những đứa con thơ, đến cả gia đình. Họ chết lặng vì hung tin. Tôi thấy nỗi đau của mình hòa quyện trong nỗi đau của họ.
Nguyễn Văn Tới - Tác giả từng nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2018, giải vinh danh Tác Phẩm 2019 và giải vinh danh Tác giả, Tác phẩm 2021. Là một cựu tù cải tạo vượt ngục và là người lái tầu vượt biển, ông định cư tại Mỹ từ 1990, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Đây là bài đầu trong truyện vừa mới nhất của Ông, viết theo dạng tiểu thuyết, chia làm nhiều kỳ. VB chọn đăng trong mục VVNM để các tác giả VVNM đã quen thuộc với ngòi bút của Ông dễ tìm. Mời đọc NGÀI CHÁNH ÁN - III.
Lịch sử Việt Nam là một dòng lịch sử của những cuộc di dân, khởi đầu từ giai đoạn lập quốc cho đến thời hiện đại. Trong dòng lịch sử ấy, làn sóng di dân sau biến cố năm 1975 đánh dấu một chương sách đặc biệt. Hàng trăm ngàn người Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 rời bỏ quê hương, vượt đại dương hay băng rừng vượt núi trong sợ hãi, với khát vọng tự do, và niềm hy vọng vào một tương lai. Tại những bãi thuyền ở Việt Nam, họ đối diện với cầm tù nếu bị bắt. Trên biển hoặc đường bộ, họ bị hải tặc hoặc thổ phỉ tấn công. Tại những quốc gia vùng Đông Nam Á, họ biết thuyền gỗ có thể sẽ bị đẩy ra khỏi đất liền. Tại những trại tỵ nạn, họ kiên nhẫn đợi chờ ngày được phỏng vấn, lên đường tái định cư.
Nhạc sĩ Cung Tiến