Hôm nay,  

Chiếc Hồ Trên Đá

19/12/202500:00:00(Xem: 420)

Molokini Crater_Ảnh Tường vi Lê
Ảnh minh họa từ Lê Tường-Vi;  Molokini Crater.
 
Tác giả là cư dân San Diego, đã hai lần thắng giải Viết Về Nước Mỹ. Năm 2001, với bài "Hoa Ve Chai", ông nhận giải danh dự. Ba năm sau, với bài viết "Giọt Nước Mắt," kể về Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam tại tiểu bang New Jersey do một kiến trúc sư Việt Nam vẽ kiểu, ông nhận giải chung kết Viết Về Nước Mỹ 2004. Ông tiếp tục viết bài và tham gia sinh hoạt giải thưởng VVNM hàng năm. Mùa lễ Tạ Ơn năm nay, tác giả gửi đến Viết Về Nước Mỹ một loạt 5 bài bút ký thấm đậm tình người từ trong gia đình đến những người thân quen của mình. Sau đây là bài thứ hai: “Chiếc Hồ Trên Đá”.

TG Sapy Nguyễn Văn Hưởng
Tác giả Sapy Nguyễn Văn Hưởng
 
***
 
Một chiếc hồ con nằm lặng yên trên đá,
Mà trong mắt trẻ thơ là cả vũ trụ xanh...
 
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
 
Tiếc thay, suốt bốn năm liền California oằn mình trong hạn hán, ảnh hưởng đủ đường đến đời sống cư dân. Không ai biết bao giờ tuyết và mưa mới trở lại như xưa để thảm cỏ trước nhà có cơ hội hồi sinh, để màu xanh công viên thôi lụi tàn.
 
Tôi vẫn nhớ hôm tiểu bang ban bố tình trạng khẩn cấp vì thiếu nước, nhà tôi nhận được một cú điện thoại kêu gọi tiết kiệm. Chồng tôi vui vẻ trả lời:
 
- Thưa cô, nhờ tiết kiệm nước mà sức khỏe vợ chồng tôi tốt lên nhiều lắm!
 
Giọng cô nhân viên ngạc nhiên:
 
- Dạ... ông vui lòng giải thích rõ hơn?
 
Nhà tôi thản nhiên đáp:
 
- Vì ngày nào vợ chồng tôi cũng tới phòng tập thể dục, tập xong thì tắm luôn ở đó!
 
Còn Thành, em chồng tôi, tếu táo khoe danh hiệu "vô địch tiết kiệm nước bang Cali":
 
- Chị Hai biết không, hồi trước một ngày em đánh răng ba lần. Giờ thì... ba ngày mới đánh một lần! Vậy đủ tiết kiệm chưa?
 
Điều khiến tôi buồn nhất không phải hóa đơn tiền nước, mà là mất trắng bốn mùa hoa Tần Ô. Ở San Diego, loài hoa ấy mọc khắp nơi: chỗ đất hoang, bên lề xa lộ, dọc những sườn đồi nắng cháy. Ngay sau nhà tôi, nơi lưng chừng đồi, cứ đầu tháng Hai là những bụi Tần Ô nhú xanh non; sang tháng Ba hoa nở vàng rực kéo dài suốt gần ba tháng. Màu hoa dân dã và đầy sức sống ấy từng làm lòng tôi rộn ràng; tôi rủ không biết bao nhiêu bạn bè cùng đến ngắm. Mất mùa hoa là mất đi những buổi rong chơi với các cháu, mất cả những khung hình tuổi thơ tôi treo trong nhà, giữ làm kỷ niệm trong album. Cứ nghĩ đến đó, tôi lại buồn đến tê tái lòng.
 
Vốn say mê chụp ảnh, tôi xem mỗi mùa hoa đến như món quà riêng của đất trời dành cho bà cháu tôi. Từ khi các cháu còn bé xíu, chúng đã trở thành "người mẫu" trong những buổi dạo đồng hoa. Mỗi lần đi ngắm hoa là một ngày đầy ắp tiếng cười, tay nắm tay, váy áo tung bay giữa trời hoa vàng, mây trắng. Mất mùa hoa nghĩa là mất luôn những buổi rong chơi và cả những khung hình rực rỡ nơi tuổi thơ đang cười tươi giữa nắng sớm lung linh. Những tấm ảnh ấy như một thứ quý giá nho nhỏ lưu giữ kỷ niệm, khiến tôi càng tiếc nuối khi mùa hoa vụt qua.
 
Ngoài hoa Tần Ô, San Diego còn nhiều cảnh đẹp làm say đắm lòng người. Công viên Balboa là một ốc đảo xanh giữa phố thị, với thảm cỏ mượt mà, hồ nước phẳng lặng. Rồi còn bao nhiêu viện bảo tàng, vườn Nhật, vườn xương rồng hòa quyện cùng kiến trúc Tây Ban Nha cổ kính. Mỗi bước chân dạo quanh như lạc vào một thế giới khác, vừa thư thái vừa gợi hoài niệm. Thành phố cũng nổi tiếng với những bãi biển, mỗi nơi một vẻ: La Jolla Cove với biển xanh như ngọc, vách đá ôm lấy sóng bạc; Mission Beach rộn ràng tiếng cười với xe đạp nối đuôi nhau chạy dọc bờ cát trắng; Sunset Cliffs, chỉ cần ngồi yên trên mõm đá, đôi chân thong thả đong đưa, mắt ngắm nhìn mặt trời lặn là lòng dịu hẳn lại.
 
Từ suốt mấy năm nay, một nơi cách nhà tôi chừng chục dặm đường đã trở thành chốn tôi hầu như tuần nào cũng ghé một hai lần: bán đảo Coronado. Muốn sang bên đó, tôi phải lái xe qua một cây cầu dài vắt ngang vịnh San Diego như dải lụa bê tông uốn cong mềm mại trên mặt nước. Đến giữa cầu, chiếc xe như được nâng lên để ngắm toàn cảnh thành phố với những tòa cao ốc lấp lánh và dòng nước êm đềm xanh trong mênh mang; đủ loại thuyền lướt qua, thuyền buồm, ca nô, du thuyền và thỉnh thoảng vài chiếc tàu hải quân hùng dũng diễn hành trước bao con mắt ngắm nhìn. Gió biển nhè nhẹ thổi lên làm mát cả thân người lẫn tâm hồn.
 
Qua khỏi chân cầu, tôi phải lựa chọn: rẽ vào công viên Tidelands với bãi cỏ xanh mướt, hàng cọ thẳng tắp và con đường xi măng sạch bóng để dạo bộ, hòa mình cùng trẻ con và các cặp đôi tận hưởng nắng vàng, gió mát, hoặc cứ thế chạy thẳng ra Coronado Beach.
 
Mấy lần đầu tôi đến rồi đi, biển Coronado không để lại ấn tượng đặc biệt nào; thậm chí còn khiến tôi khó chịu vì từ bờ xuống mé nước phải băng qua một bãi cát khô, nhiều đoạn dài cả trăm thước. Mãi sau một chuyến sang Hawaii, vợ chồng tôi mới khám phá ra thú vui đi chân trần trên cát, và từ đó nhìn Coronado bằng đôi mắt khác, như nhận ra một món quà bất ngờ vốn đã có từ lâu.
 
Coronado, một bãi cát dài quay ra Thái Bình Dương, bị căn cứ hải quân chặn hai đầu nên chỉ còn khoảng hai dặm dài cho người ta vui chơi; cát trắng mịn pha ánh kim trải như dải lụa, biển xanh ôm lấy đường chân trời, xa xa mái ngói đỏ của khách sạn Del Coronado nổi bật như lâu đài cổ tích. Đứng trước tòa nhà ấy, tôi nghĩ nơi này đã chứng kiến bao dấu chân người đời, từ thuở ông cha tôi còn đội khăn đóng đến hôm nay, một người đàn bà Việt xa xứ mới chịu đặt chân trần xuống cát để cảm nhận hết vẻ quyến rũ.
 
Mỗi buổi chiều, ánh hoàng hôn nhuộm đỏ cả bầu trời lẫn mặt biển; lớp cát khô ngày trước từng làm tôi ái ngại, giờ như đang xoa bóp dưới gan bàn chân. Càng đến gần mé nước, cát càng mềm mại, mát rượi, len vào từng kẽ chân và cả vào tâm hồn. Mỗi lần đặt chân lên cát, tôi thấy như được rửa sạch những lo toan nhỏ nhặt; mỗi hạt cát khắc một ký ức dịu êm vào lòng và gợi tôi nhớ về tuổi thơ, những chiều dắt trâu ra đồng, chân lội bùn mát lạnh in dấu trên mặt đất.
 
Từng bước trên cát Coronado như đưa tôi trở về, không hẳn vì cảnh vật giống nhau, mà vì cái gần gũi lặng thầm giữa thiên nhiên và lòng người. Mỗi chiều là một bức tranh mới: đôi tình nhân ôm nhau, em bé nhảy sóng, người chụp ảnh bên hàng dừa; khi mặt trời khuất, ánh đèn flash chớp lên như cố lưu giữ thêm vài khoảnh khắc cuối ngày.
 
Bãi biển Coronado thoai thoải hiền hòa; từ trẻ nhỏ đến người già, người biết bơi hay không, ai cũng có thể nô đùa với sóng hoặc nằm dài trên cát phơi nắng. Sau khi quen đi chân trần, tôi vẫn thấy quanh mình có những người "quê mùa" như tôi ngày trước, khó chịu chỉ vì vài hạt cát chui vào giày; nhưng rồi chính những hạt cát ấy lại đem về cho tôi nhiều niềm vui và kỷ niệm.
 
Những sắc vàng của hoa Tần Ô mà tôi từng bấm máy lưu giữ cho mấy đứa cháu nội nay đã nhường chỗ cho biển xanh, cát trắng và tiếng reo vui rộn ràng của hai đứa trẻ lớn lên bên tôi. Không đứa nào sợ nắng như bà, cũng chẳng ngại gió; ra đến biển, chúng như tan vào sóng: chạy không biết mỏi, miệng cứ thế hét vang, nhảy ùm xuống nước, rồi ngồi bệt nhặt vỏ sò, đuổi theo chim hải âu, tìm ông nội, thậm chí đòi chạy đua cùng ông.
 
Coronado gợi tôi nhớ những bãi biển quê nhà: Vũng Tàu với con đường cát trắng thoai thoải, Nha Trang với hàng dừa nghiêng bóng, Đà Nẵng chiều xuống rì rào tiếng sóng. Ở mỗi nơi màu nước, loại gió khác nhau, nhưng đều có điểm chung: gió mằn mặn thấm vào da thịt, tiếng sóng như nhịp tim biển cả, và hạt cát dưới chân lấp lánh như vụn vàng mặt trời. Giữa Coronado, tôi vừa thấy mình đứng ở một miền đất mới, vừa chạm lại những mùa hè đã xa.
Linzy, vốn quen xưng mình là "chị Hai", đứa cháu nội đầu lòng, sinh ra đúng vào năm tôi tròn sáu mươi. Sự vào đời của cháu ngày ấy là một nỗi lo lớn không chỉ riêng vợ chồng tôi mà cả bên sui gia cũng phập phồng theo dõi từng ngày. Linzy chỉ nằm trong bụng mẹ sáu tháng mười ba ngày; hình hài đỏ hỏn, bé xíu, nặng vỏn vẹn một ký năm gram. Cháu được đặt vào lồng kính như cái bụng mẹ bằng thủy tinh để giành giật từng hơi thở với sự sống. Suốt hai tháng trời cả nhà chỉ còn biết âm thầm cầu nguyện, mong sao chút sinh khí mong manh kia đủ vững vàng để bám trụ với cuộc đời. Mãi đến ngày được phép đón cháu về, ai nấy mới thở phào nhẹ nhõm như vừa vượt qua một trận bão lớn. Vậy mà giờ đây cháu đã tung tăng trên bãi biển, vừa cười vừa thách đố:
 
- Ông nội bắt con đi!
 
Còn tôi tha hồ bấm máy, lưu lại từng khoảnh khắc để mai này, khi các cháu lớn lên, chúng biết rằng đã từng có ông bà nội bên cạnh. Cái túi vải tôi luôn đeo trên vai mỗi lần ra biển chẳng có gì nhiều: áo quần khô, khăn tắm, nước uống, bánh mì, bánh ngọt, không dư thừa nhưng đủ cho một buổi dạo biển ấm áp. Mỗi lần nhìn cháu chạy nhảy, lòng tôi như tan chảy; tôi biết mình may mắn khi còn được chứng kiến và giữ lại những khoảnh khắc ấy.
 
Một hôm thấy tôi cầm vài chiếc lông chim hải âu đen trắng, Lya, cái tên bố mẹ đặt với ý nghĩa Love, You, Always, tròn xoe mắt hỏi:
 
- Bà nội nhặt mấy cái lông chim này làm chi vậy?
 
Tôi mỉm cười:
- Để khi cần vẽ mấy nét nhỏ thiệt nhỏ lên mấy bức tranh bà đang tô trên tường nhà.
 
Lya thích thú cầm lấy, rồi lượm thêm những mảnh sò bé tí, dúi vào tay tôi bảo cất vô túi. Có lần tôi nhặt được một chai rượu nhỏ, ngắt vài bông hoa dại bỏ vào, đưa cho cháu gọi là "bình bông du mục"; Lya ôm bình hoa cười khúc khích như nhận một món quà kỳ diệu.
 
Còn Linzy thì thích đắp cát lên người, múc nước đổ vào hố cát, vẽ số vẽ chữ bằng tay, những con số và chữ cái tôi mới dạy ở nhà. Một buổi chiều, khi đang đi dọc theo dãy đá, Linzy reo lên:
 
- Nội ơi, con thấy một cái baby lake!
 
Tôi nhìn theo ngón tay cháu: một vũng nước nhỏ trong veo nằm gọn trên phiến đá, khuất sau bụi cỏ. Trong mắt cháu đó là cả một cái hồ bí mật. Ba bà cháu rửa tay, rửa sò, hai đứa cháu nhúng cả đôi bàn chân bé xíu vào; Linzy mắt sáng rỡ:
 
- Linzy là người đầu tiên tìm ra cái hồ baby bí mật này! Từ nay con khỏi cần đứng chờ rửa chân ở vòi nước nữa nghen nội!
 
Lya phụng phịu:
 
- Chị Ba cũng thấy giống như chị Hai mà!
 
Tôi xoa dịu:
 
- Vậy cái "baby lake" này là của cả hai: chị Hai lẫn chị Ba.
 
Nhìn hai chị em hồn nhiên cười khúc khích, dẫm chân xuống vũng nước nhỏ trong đá, lòng tôi chợt nhớ tới một câu hát cũ khiến lòng se thắt: Bây giờ trong cái nón sắt của anh để lại trên bờ lau sậy này, chỉ có một con ễnh ương mượn vũng nước mưa đọng trong đó làm hồ. Trong cái nón sắt của anh bây giờ vẫn có đủ trời, vẫn mây hiền hòa trôi và bốn mùa vẫn về. Xuân muôn thuở dịu dàng, Đông rét lạnh, Thu khi xám buồn, khi rực vàng nắng quái, Hạ cháy lửa nung trời... Chiếc hồ nhỏ trong chiếc nón sắt bỏ quên giữa bờ lau sậy có thể là dấu tích cuối cùng của một người lính không trở về; còn cái hồ nhỏ hôm nay trên bãi đá Coronado là mảnh trời tuổi thơ lấp lánh, nơi sự sống tiếp tục nảy mầm qua tiếng cười của trẻ con, hai đứa cháu tôi.
 
Tôi không biết người chiến sĩ đã để lại chiếc nón ấy giờ ở đâu, có thể chỉ còn là một cái tên khắc trên bia đá. Nhưng tôi biết chính sự hy sinh lặng thầm của họ đã vun bồi cho buổi chiều bình yên này, với đứa cháu ôm "bình bông du mục" cười khúc khích, như thể cả thế giới chỉ còn lại niềm vui. Lòng tôi bỗng nghẹn lại trước hình ảnh quá khứ và hiện tại gặp nhau trong một khoảnh khắc mỏng manh, nhưng đầy ắp ơn nghĩa và tình người.
 
Chiếc hồ trong chiếc nón sắt và chiếc hồ trên bãi đá, hai hình ảnh, hai giai đoạn lặng lẽ nối nhau qua những thế hệ. Và tôi, người từng đi qua khói lửa, giờ bên cháu mình, thấy lòng ấm lại. Trong ánh hoàng hôn nhạt màu, tôi thầm cảm tạ Ơn Trên và gọi tên những người vô danh đã để lại cho đời những vũng nước nhỏ để cháu con mai sau có nơi in dấu bàn chân đầu đời. Bãi biển Coronado, trong khoảnh khắc ấy, hiện lên như một phép ẩn dụ cho những điều quý giá âm thầm ẩn mình giữa đời sống, chờ một bàn tay nâng niu để bừng sáng.
 
 
Sapy Nguyễn Văn Hưởng
 
Chú thích của TG:Viết theo lời kể của bà nội để riêng tặng vợ tôi và hai đứa cháu nội.
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 473,115
Hôm qua tôi đi tham dự lễ trao giải Việt Báo Viết Về Nước Mỹ (VVNM) lần thứ 25. Vậy là đã tám năm từ khi tôi tham dự lễ trao giải VVNM lần trước và hai mươi ba năm từ lần đầu. Có nhiều thứ đã thay đổi và cũng còn nhiều cái vẫn còn nguyên như hai lần trước. Khách mời danh dự năm 2002 có nhạc sĩ Phạm Duy, tài tử Kiều Chinh, nhà thơ Du Tử Lê, nhà báo Đỗ Ngọc Yến của báo Người Việt. Trong những người này chỉ còn tài tử Kiều Chinh có mặt ngày hôm qua. Nếu tôi nhớ không lầm thì năm đó cũng là năm bà Trùng Quang được vinh danh là tác giả cao tuổi nhất (92). Năm đó có lẽ tôi là một trong hai tác giả trẻ tuổi nhất (29), người kia là Orchid Lâm Quỳnh (?). Hôm qua, tại lễ trao giải VVNM, tôi vẫn còn là một trong ba tác giả lãnh thưởng trẻ nhất. Vừa đậu xe xong, bước ra là thấy tác giả trẻ tuổi nhất, Võ Phú, đang đi bên cạnh. Võ Phú tuy là tác giả trẻ tuổi nhất ngày hôm qua nhưng lại là một trong những tác giả nhiều “tuổi VVNM” nhất vì đã tham gia từ năm 2004...
Cộng đồng người Việt khắp nơi đang đánh dấu năm thứ năm mươi sinh sống ở hải ngoại. Nửa thế kỷ – một chặng đường đủ dài để lớp người lưu vong trưởng thành, đủ lâu để một nền văn hoá vừa tiếp thu cái mới mà vẫn giữ vững căn cước cội nguồn. Chính từ sự giao hòa giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống Việt và văn hóa nơi xứ người, giữa gian truân và thành tựu, giải thưởng Viết Về Nước Mỹ ra đời như một nhịp cầu kết nối các thế hệ, một hành trình nhân văn bảo tồn tiếng Việt, lưu giữ ký ức, chia sẻ kinh nghiệm hội nhập và hướng đến tương lai vững vàng của cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ sau 50 năm. Thành lập một phần tư thế kỷ trước, đúng ngày 30 tháng 4 năm 2000 – kỷ niệm 25 năm người Việt miền Nam phải bỏ xứ ra đi – giải thưởng Viết Về Nước Mỹ nhanh chóng trở thành diễn đàn gửi gắm tâm tư, tình cảm và kinh nghiệm hội nhập thực tế, qua hàng chục ngàn câu chuyện, hàng ngàn cuộc đời.
Không phải ngẫu nhiên mà Viết Về Nước Mỹ được nhà thơ Nguyên Sa gọi là “Lịch Sử Ngàn Người Viết.” Mà nếu tính cho đến ngày hôm nay, con số “ngàn” ấy chắc đã lên tới chục ngàn, trăm ngàn. Viết Về Nước Mỹ năm nay là năm thứ 25.
Em sinh ra không bình thường như những đứa trẻ khác. Sáu tháng tuổi, em bắt đầu có những hiện tượng lạ. Mẹ đưa em đi khám, và phát hiện em bị chứng Progeria - một căn bệnh hiếm gặp mà khoa học chưa thể chữa trị được. Em không bụ bẫm, không lớn lên theo vòng tay chờ đợi của cha mẹ, mà già nhanh từng ngày cùng những giọt nước mắt đau khổ của mẹ. Em lớn lên trong ánh mắt ướt nhòa ấy. Mỗi nếp nhăn xuất hiện sớm trên gương mặt non nớt của em lại hằn thêm một vết thương trong tim mẹ. Có những đêm, em tỉnh giấc, thấy mẹ ngồi lặng bên giường, bàn tay run run khẽ vuốt mái tóc đã mỏng và thưa của em, như sợ rằng chỉ cần một cái chạm mạnh thôi, những sợi tóc cuối cùng cũng sẽ rụng hết. Đêm nối ngày, mẹ hao gầy theo từng nhịp thở yếu ớt của em, nhưng ánh mắt mẹ chưa bao giờ rời đi, như muốn khắc vào hồn em một điều: “Con không đơn độc.”
Tôi quẹo xe vào tận cùng góc phải khu Almaden Safeway Center San Jose, CA, tìm được một chỗ đậu, và mở cửa bước ra ngoài. Ngọn gió cuối thu dịu dàng thổi qua những hàng cây trụi lá, mang theo chút hơi lạnh đầu đông, len vào từng góc khu shopping lớn của miền Bắc California. Bãi đậu xe của siêu thị Safeway chiều nay đông kín vì gần ngày Lễ Tạ Ơn, một trong những ngày lễ lớn của Hoa Kỳ. Dù chỉ mới đến Mỹ hơn ba năm, tôi cũng đã có khá nhiều kinh nghiệm về việc kiếm chỗ đậu xe ở cái shopping mall này khi đi mua sắm. Chọn đi xa một chút nơi cuối bãi thì dễ có chỗ trống và khỏi sợ ai đụng quẹt mình. Thấy trời còn chút nắng chiều, tôi bước trở lại xe lấy cái mũ rộng vành chụp lên đầu và đeo vào cặp kính râm. Đi ngang qua chỗ cái thùng rác dưới gốc một cây xanh, tôi xém vấp vào một người quần áo nhem nhuốc đầu trùm mũ áo lạnh sùm sụp với cái bao nylon lớn đen thùi lùi đựng đầy chai lon nhôm nhựa nằm cạnh bên...
Thật khó ngờ rằng, bước vào tuổi nghỉ hưu, tôi vẫn còn dịp lo liệu cho tuổi già của bố mẹ. Chính trong những ngày ấy, tôi bắt đầu nghĩ về tuổi già, không của ai khác mà của chính mình. Khi va chạm với thực tế, tôi thấy hình bóng tương lai của mình trong từng chi tiết nhỏ: nào khó khăn lúc bước vào trong xe, nào không thể tự mặc cho mình manh quần tấm áo. Tôi là con cả trong một gia tộc đông anh em. Dù đã sống trên đất Mỹ lâu hơn khoảng gần ba mươi năm so với thời gian tôi từng sinh sống ở quê nhà, tôi vẫn giữ lối nghĩ của người Việt: phận làm con là phải chăm sóc cha mẹ lúc xế chiều, như một phần máu thịt, chẳng cần ai nhắc. Có lúc đứng một mình, tôi tự hỏi rằng đã sẵn sàng cho vai trò đó đến đâu, và câu trả lời luôn dẫn tôi về với trách nhiệm không thể thoái thác. Dẫu tôi có đến bảy đứa em và mấy chục đứa cháu, tôi vẫn coi phần chính của bổn phận ấy thuộc về mình.
Căng Thẳng! Hôm nay thiệt tình căng thẳng quá! Trường lớp đã tan. Một trăm mười một ông thầy Papua New Guinea (PNG) đã lục tục kéo nhau về nhà, nghỉ lễ gần ba tuần rồi. Nhưng văn phòng ông giáo vẫn mở cửa từ sáng sớm đến đêm khuya, bởi chấm điểm thi, cộng điểm các lớp, lên bảng điểm để gửi về các đấng bậc của mười một địa phận trên toàn quốc. Trong khi thiên hạ tà tà đi chơi khắp nơi, ăn khoai lang heo nướng, uống bia SP địa phương, bụng ai nấy tròn vo, thì đèn trong phòng ông giáo vẫn sáng. Ông vẫn ăn khoai, vẫn khù khụ ho lao, vẫn cặm cụi bút đỏ chấm chấm gạch gạch bài luận, vẫn cộng điểm, vẫn bạc mái tóc, vẫn mình hạc xương mai. Trời PNG cuối năm lại mưa bão liên miên. Mưa biến con đường chạy bộ thành bùn lầy, thế là mặt mũi ông giáo chương to như con bò chết sình hơn ba ngày nằm bên vệ đường. Căng thẳng đủ điều, nhưng ông giáo vẫn không quên lễ Tạ Ơn, Thanksgiving 2025.
Tôi đến với “Viết Về Nước Mỹ “muộn màng, khi tóc đã điểm bạc, khi đã đi quá nửa đời người và khi trái tim tưởng chừng như đã chai mòn trong cuộc sống bận rộn, bôn ba nơi xứ người. Thế mà chính nơi đất khách này, giữa những mùa thu lá rụng của Silicon Valley, tôi lại tìm thấy một lối đi mới - con đường của chữ nghĩa, của ký ức, của hoài niệm và của những điều không thể nào quên.
Cuối tuần vừa rồi, gia đình tôi lại đưa cậu con trai trở về khuôn viên Đại học James Madison, sau gần một tuần nghỉ lễ mùa thu. Con đường I-64 hướng Tây vẫn đẹp như thuở nào. Những triền đồi nhuộm vàng, đỏ, cam… đủ mọi sắc lá của buổi đầu thu, rực rỡ và lãng đãng trong nắng dịu. Tôi vẫn yêu con đường này, như đã yêu từ lần đầu khi đi qua, cách đây đã hai mươi sáu năm. Ký ức bỗng ùa về như gió thu chạm khẽ vai áo. Hồi đó, tôi chỉ là một cậu sinh viên năm thứ hai xa nhà. Cũng vào một kỳ nghỉ lễ, anh bạn Mai Thọ Triều rủ tôi về nhà anh ở Roanoke chơi. Đó là lần đầu tiên tôi biết đến cung đường I-64W rồi I-81S, và cũng là lần đầu tiên tôi đến Roanoke. Từ dạo ấy, tôi yêu thành phố nhỏ nằm giữa lòng núi ấy, và đã từng viết về nó trong bài tùy bút "Roanoke, (Virginia) và Buổi Chiều Gió Lộng."
Cứ đến gần cuối năm thì hầu hết nhân viên sở làm nào cũng đều thi nhau bứt tóc bứt tai viết ra “chỉ tiêu” cho năm mới, chúng phải hấp dẫn hơn năm cũ, và phải khớp với dự án phát triển của công ty. Mỗi người mình khi sang tuổi mới chắc cũng làm tương tự: sẽ lên danh sách cho mình vài “món quà” để cố gắng đạt đến. Thêm một chiếc xe hay thêm một cái nhà? Nhẹ nhàng hơn là tập thêm một môn thể thao nào đó hoặc bỏ đi một thói quen không còn thích hợp? Giỏi hơn nữa là bớt ăn đường, bớt ăn mỡ, hoặc bớt đi shopping, bớt đi happy hour? Tập sống lành mạnh hơn, tập tiết kiệm…Hồi tháng trước, tôi đã thực hiện được mong ước viếng thăm Bhutan, đất nước nơi sự giàu mạnh được đo bằng chỉ số hạnh phúc của người dân. Sau một tuần thăm viếng những địa điểm đặc trưng và quan sát đời sống và văn hóa của người dân Bhutan,… tôi sang thăm Ấn Độ. Nơi đây vì sự phân chia giai cấp vẫn còn triệt để nên số lượng người nghèo khó và bệnh tật khá lớn, mạng sống thấy nhẹ như rơm…
Nhạc sĩ Cung Tiến