Hôm nay,  

Vết Xe Đổ

04/03/202500:00:00(Xem: 3438)

 

TG Lai Thi Mo nhan giai Danh Du từ Giam khao Nguyen Viet Tan
TG Lại Thị Mơ (đứng thứ hai từ bên phải) nhận giải Danh dự VVNM 2023  từ Giám khảo Nguyễn Viết Tân

Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2017 và đã nhận giải Đặc Biệt năm thứ mười tám và giải Danh Dự năm 2023. Bà cho biết bút hiệu là tên thật, trước là nhà giáo tại Việt Nam, định cư tại New Jersey năm 1994 theo diện HO.
 
***
 
Dung vượt biên qua Mỹ lúc vừa xong trung học. Bố mất khi còn trong trại giam sĩ quan chế độ cũ. Mẹ cũng mất sau mấy năm bươn chải mua bán nuôi con. Hai đứa cháu mồ côi được cô mang về nuôi.
 
Khi Dung học xong trung học, cô tìm mối vượt biên cho Dung đi, bởi vì con “ngụy quân ngụy quyền” không thể vào đại học. Chuyến đi kinh hoàng suýt mất mạng, nhưng cuối cùng Dung cũng được nhận vào Mỹ, vì khai bố mất trong tù. Phái đoàn Mỹ khi phỏng vấn họ tìm ra tung tích bố dễ dàng, dựa vào tấm hình bố mặc quân phục ẵm Dung lúc 5 tuổi, cười nhe hàm răng sún thiếu 2 cái răng cửa.
 
Nhờ tấm hình Dung được phái đoàn chấp thuận cho vào Mỹ. Ưu tiên con cái của những quân nhân trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Chua xót thay bố Dung không bỏ mình trong chiến tranh, mà chết vì bệnh tật đói khát trong trại tù.
 
Qua Mỹ, Dung được cha mẹ nuôi người Mỹ bảo trợ. Sống với foster American parents, Dung yên tâm học hành. Biết thân phận mồ côi, Dung chăm lo bài vở, cố gắng học xong sớm, có việc làm để lo cho cô và em còn ở Việt Nam. “Ơn đền nghĩa trả“ cố gắng vươn lên hầu như là ý nguyện của tất cả những người sống sót sau những chuyến vượt biển kinh hoàng.
 
Ngày xưa chưa có Smart phone, không nhìn thấy mẹ, không có tiền về quê, những đứa con xa xứ chỉ đoán mẹ vui hay buồn qua giọng nói tiếng cười. Nhà thơ Trần Trung Đạo cũng là thuyền nhân đã gởi lòng mình bằng hai câu thơ tuyệt tác:
 
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
 
Dung chẳng có thì giờ về thăm, chẳng biết cô và em sinh sống ra sao. Chẳng bao lâu Dung lập gia đình với Hòa, cũng là boat people. Mười năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cả hai mới đi được, nên hiểu rõ mọi khó khăn cho những ai còn kẹt lại.
 
Lúc nào Dung cũng trĩu nặng suy tư lo cho em gái vẫn còn ở Việt Nam. Biết nỗi trăn trở của vợ, Hòa cũng khích lệ Dung bảo lãnh cho em. Bảo lãnh diện anh chị em là ưu tiên chót, rất lâu, từ 12 tới 15 năm. Mặc kệ Dung vẫn nộp hồ sơ cho Hạnh, miễn sao chị em đoàn tụ.
 
Mười năm lăn xả nơi xứ người, Dung hoàn toàn mù tịt mọi thay đổi ở quê nhà. Trong tâm khảm Dung chỉ nhớ cô em mới học lớp 6 khi chị vượt biên. Gây dựng lại cuộc đời nơi xứ người rất khó khăn, nhưng Dung vẫn cố gắng gởi về phụ giúp  cô và em mỗi tháng 400 đô cho cả hai. Đây là tiền riêng của Dung, Hòa không hề biết. Cuộc sống  gia đình nhỏ vẫn êm đềm trôi qua.
 
Mấy chục năm trước khi vật giá chưa leo thang, tiền lương hai vợ chồng có bằng đại học như Dung Hòa cũng không đến nỗi thiếu thốn. Gia đình vẫn có thể đi du lịch ít nhất một lần mỗi năm.
 
Từ ngày chia tay, tới khi gặp được em, đúng một phần tư thế kỷ, biết bao nhiêu thay đổi khó lường. Cô mất, được hưởng căn nhà, gặp thời giá lên, Hạnh bán, mua chung cư. Tiền dôi ra, Nguyên, chồng Hạnh mua xe van 6 chỗ để chở khách du lịch trong nước, làm kế sinh nhai. Hạnh cũng bỏ học khi Dung vượt biên. Ở Việt Nam không cần bằng đại học, buôn bán ngoài vẫn sống ung dung. Tiền kiếm được không bị đánh thuế. Khác hoàn toàn ở Mỹ, khi xin việc bao giờ cũng phải nộp tờ khai thuế năm trước.
 
Nguyên rong ruổi đường xa kiếm tiền, Hạnh ở nhà chỉ đưa đón con đi học, thời giờ rảnh rỗi đi hát hò nhảy nhót với bạn bè. Dung vẫn miệt mài đi làm nơi xứ người, tằn tiện để có tiền gởi về cho em, bên Việt Nam Hạnh nào có biết. Trong đầu chị vẫn nghĩ cuộc sống ở quê nhà rất khó khăn. Còn Mỹ “mang tiếng” thiên đường, hình như ai cũng nghĩ kiếm tiền dễ dàng như có cây tiền (money tree) trồng ở sân sau. Nên “quy Mã“ (qua Mỹ) vẫn là niềm ao ước của nhiều người.
 
Hồ sơ bảo lãnh quá lâu, gần 15 năm, Hạnh không còn là cô bé lớp 6 rụt rè nhút nhát năm xưa. Bây giờ Hạnh hoàn toàn lột xác, không còn lui cui trong xóm nghèo như hồi Dung ở nhà, có tiền rủng rỉnh tiêu xài phung phí, 200 đô mỗi tháng chẳng bõ bèn gì, nhưng của cho không ai từ chối. Chỉ có cái xe van để kiếm tiền, nhưng vẫn nghĩ mình là chủ, không phải đi làm thuê làm mướn.
 
Dung Hòa vẫn sống bình dị, hạnh phúc chan hòa khi có thêm đứa con thứ nhì. Ở Mỹ ai cũng phải làm việc, người lớn đi làm, trẻ con đi học đó là khuôn mẫu cuộc sống cho mọi gia đình. Đi làm để có tiền trang trải mọi chi phí. Thuế nhà rất nặng, không như ở Việt Nam có nhà không phải lo lắng gì nữa. Bảo hiểm nhà, bảo hiểm xe, bảo hiểm sức khỏe biết bao thứ tiền bắt buộc.
 
“Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.” Người lớn phải có việc làm. Trẻ con đi học để mai kia nuôi thân, xã hội bắt buộc như thế. Bên Việt Nam nghe lương dược sĩ, kỹ sư của Dung Hòa cả trăm ngàn/ một năm, ai cũng nghĩ đó là cuộc sống của giai cấp thượng lưu, gọi là “đại gia”, ở nhà to, đi xe đẹp chắc chắn phải có người giúp việc. Những người giàu có toàn ở biệt thự lộng lẫy, ông bà chủ, cậu ấm cô chiêu giống như trong truyện của Tự Lực Văn Đoàn. Gia nhân có tài xế, vú em, làm bếp, làm vườn. Thậm chí còn có người dắt chó đi chơi.
 
Hàng ngày có biết bao gia đình tan vỡ chỉ vì bảo lãnh người thân từ Việt Nam qua. Tất cả đều do không thực sự hiểu nhau. Chỉ có liên hệ gia đình mới được bảo lãnh.
Người đứng đơn là người “đứng mũi chịu sào”, chính phủ sẽ không giúp bất kỳ trợ cấp nào cho người tới định cư.
 
Định cư theo diện bảo lãnh, gọi là hợp pháp (legal) sẽ được hưởng mọi quyền lợi về luật pháp. Khởi đầu tạm trú, sau đó thường trú. Khi đủ thời gian quy định, thường trú nhân, tức là đã có green card (thẻ xanh), nếu không có tiền án sẽ được thi quốc tịch.
 
Con đường hợp pháp dài như thế. Nhưng đã hợp pháp dù chỉ tạm trú vẫn xin được việc làm, được đi học chữ, học nghề… còn trẻ con được ưu tiên đi học miễn phí 13 năm (từ mẫu giáo cho tới hết trung học).
 
Chính phủ luôn luôn tạo mọi điều kiện để vươn lên. Vì thế người ta gọi Mỹ là xứ cơ hội (Land of opportunities). Còn có muốn nắm bắt cơ hội để vươn lên hay không, tuỳ ý thức của mỗi người. Chỉ quét dọn ban đêm hay bưng bê ở tiệm ăn cuối tuần. Nhưng có biết bao cựu tù và con cái của họ vẫn kiếm được mảnh bằng đại học sau bao nhiêu năm vượt khó. Trẻ nhỏ thuộc loại ưu tiên hàng đầu. Không tốn tiền học, có xe bus đưa đón, cha mẹ làm ít lương thì con được ăn trưa miễn phí. Còn đòi hỏi gì hơn nữa?
 
Than ôi! Hạnh Nguyên nào có biết ngày xưa Dung Hòa cực khổ như thế nào. Căn nhà nhỏ chỉ vừa đủ cho bốn người, giờ nhét thêm bốn người nữa, biết bao thứ xào xáo xảy ra. Sau vài tuần đoàn tụ vui vẻ, giờ là lúc nhìn vào thực tế.
 
Thật bối rối cho Dung Hoà, vì Hạnh Nguyên không biết tiếng Anh, kiếm việc rất khó. Xin việc lao động bưng bê ở chợ hay quán ăn thì mang tiếng khi dễ, coi thường. Ngoài ra còn học lái xe và biết chút ít tiếng Anh để giao tiếp. Đó là bước khởi đầu gây dựng cuộc sống mới nơi xứ người. Ai muốn định cư nên chuẩn bị trước, cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định.
 
Về lâu dài 4 người không thể chen chúc nhau chỉ trong một phòng của nhà Dung Hoà, dù chỉ là ở tạm. Mướn Apartement thì ai trả? Dung Hòa choáng váng mặt mày. Không dám hỏi em mang qua bao nhiêu. Gồng gánh tất cả kéo dài được bao lâu? Hòa là người lịch sự, rất hòa nhã như tên gọi, nhưng cũng bắt đầu than thở:
 
- Trước kia kéo thùng rác và thùng recycle là việc của anh. Nhưng bây giờ có Nguyên, cũng là đàn ông, cả ngày rảnh rỗi sao không làm? Chờ tới tối, đi làm về anh vẫn phải mang ra?
 
Dung bây giờ “há miệng mắc quai “. Những chuyện nhỏ nhặt mỗi ngày mỗi nhiều. Tiền chợ, tiền điện gas tăng vùn vụt đến chóng mặt. Nhà cửa lúc nào cũng ồn ào, vì trẻ con giành nhau đồ chơi, không khí bắt đầu căng thẳng.
Khổ tâm nhất là Dung, hy sinh mọi thứ vì chỉ có Hạnh là em duy nhất. Tai này nghe Hòa than thở, tai kia nghe em kêu ca. Dung chỉ muốn gào lên, Dung đã phải đổi mạng sống, cắm đầu cắm cổ học hành, nhịn ăn nhịn mặc mới có ngày hôm nay.
 
Hạnh Nguyên sống dư dã, nhưng có phần buông thả, chồng thường xuyên vắng nhà đưa khách du lịch khắp nơi, cơm hàng cháo chợ. Thói quen ngồi quán tới khuya mới về. Nguyên không có khái niệm family man cần chia xẻ công việc nhà với vợ, trông con, cắt cỏ, cào tuyết… những việc hoàn toàn không có ở Việt Nam. Hạnh cứ đàn đúm ca hát nhảy nhót. Nguyên nhậu nhẹt la cà mỗi đêm.
 
Trẻ con lớn dần, đủ thứ rủi ro về bệnh tật như sốt xuất huyết vẫn có mặt ở Việt Nam theo chu kỳ mỗi năm. Hệ thống y tế, hệ thống giáo dục không thể so được bên Mỹ.  Từ xung đột tới cãi nhau nảy lửa. Cuối cùng giọt nước tràn ly, Hòa nhất định ly dị vì cho rằng Dung bênh em. Vài tháng sau Hạnh Nguyên theo bạn bè rủ rê, cũng dọn ra, tới tiểu bang khác. Thế là mọi thứ tan tành.
 
Mặc dù nghe nói nhiều cảnh tương tự xảy ra khi bảo lãnh người thân, nhưng Dung cứ nghĩ gia đình mình khác, không đến nỗi nào. Không bảo lãnh thì mang tiếng ích kỷ nhỏ mọn. Bảo lãnh qua thì bị chửi bới trách móc.
 
- Khổ như vậy, sao không nói? Để bây giờ nhà cửa bán hết rồi. Làm sao trở về?
 
Trăm nghe không bằng mắt thấy, dù có kể ra một lô những khó khăn sẽ phải đối mặt, nhưng người đi định cư không mường tượng được. Họ chỉ thấy đồng đô la vẫn ưu thế hơn tiền đồng trong nước.
 
Nhiều người để chuẩn bị cho người thân qua có việc, họ đã sốt sắng kiếm mua business nhỏ như quán ăn, tiệm giặt máy… dĩ nhiên họ phải đứng tên. Ai dè bị mang tiếng lợi dụng người thân. Thật là oan Thị Kính. Ách giữa đàng mang vào cổ.
 
Nơi chỗ Dung làm, có ông cụ than thở dỗ dành cậu út qua Mỹ để được gần con cháu lúc cuối đời. Không ngờ qua rồi, thấy vất vả hơn khi còn ở Việt Nam, cả con trai lẫn con dâu xúm vào chửi cụ té tát.
 
Thời gian trôi qua, những người được bảo lãnh định cư, đã nhìn thấy những ưu đãi mà họ không bao giờ có ở Việt Nam. Mỗi sáng xe bus đưa con đến trường. Đi khám bệnh không phải chầu chực. Không khúm núm xin xỏ hay năn nỉ nơi cửa quyền. Không lót tay lót chân, móc nối thậm thụt cửa trước cửa sau. Nộp đơn hội đủ điều kiện sẽ được giải quyết. Chạy xe đúng luật không sợ cảnh sát phạt.
 
Hạnh Nguyên sau vài năm ổn định, đã hiểu được tấm lòng bao dung của chị, hy sinh lo cho em quá nhiều. Nỗi hối hận muộn màng cũng không bù đắp được cho Dung mái ấm ngày xưa. Dung không giận hờn trách em, mà cho rằng tại duyên nghiệp gây cảnh chia lìa, tan đàn xẻ nghé.
 
Gia đình Hạnh Nguyên này đã hòa mình với cuộc sống mới. Nguyên bỏ thói quen la cà nhậu nhẹt sau mỗi buổi chiều. Hạnh cũng chẳng có bạn bè rủ nhau ca hát nhảy nhót, chỉ biết đi làm lo nội trợ trong nhà. Hai đứa con xong trung học đang chuẩn bị vào đại học.
 
Mỹ là nơi tạo điều kiện cho mọi người vươn lên. Hai đứa trẻ thích đời sống bên Mỹ, Hạnh Nguyên cũng không còn than van trách móc. Nếu Dung không đứng mũi chịu sào, bảo lãnh thì làm sao có được cuộc sống như bây giờ.
 
Trước kia sống theo lối “ăn xổi ở thì“ vì Hạnh Nguyên không nhìn xa, để thấy cuộc sống ở Mỹ bảo đảm tương lai cho con cháu. Miễn học phí cho hết trung học. Sách học được mượn từ thư viện, cha mẹ làm lương ít thì con được ăn trưa, có xe đưa đón đến trường. Lên đại học con nhà nghèo cũng được trợ giúp học phí. Ai cũng được mượn nợ, học xong đi làm mới phải trả dần theo khả năng. Về hưu nếu lãnh ít, chính phủ sẽ giúp thêm tiền mua thực phẩm, khám bệnh miễn phí hoàn toàn.
 
Được bảo lãnh định cư hợp pháp ở Mỹ là điều may mắn cho tương lai sau này của con cháu. Giáo dục rất tốt, hệ thống y tế thuộc hàng đầu trên thế giới. Không phân biệt kẻ giàu người nghèo, quan lớn hay dân đen cùng một thứ bệnh cùng cách trị liệu.
 
Đừng để những suy nghĩ tiêu cực giận hờn trách móc làm sứt mẻ tình gia đình. Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Những tiện nghi trong đời sống người dân của nước tiên tiến được hưởng, chắc chắn phải hơn những nước đang phát triển.
Vì qua Mỹ khi đã học xong trung học, nên Dung vẫn tìm đọc sách báo của các văn nghệ sĩ miền Nam, nhưng thích những người cùng bị tù như bố. Thi sĩ Trần Dạ Từ có bài thơ mà Dung rất thích.
 
Hòn đá làm ra lửa
 
Hai hòn đá đen đúa, sần sùi, không đáng một xu.
Dzụt gốc xoài, quạ không thèm mổ,
Quăng tận ổ, kiến không thèm bu.
Phơi giữa trại tù, kẻ thù không ngó.
Hợp đôi lại, chúng làm ra lửa.
 
Lúc đầu Dung nghĩ hòn đá làm sao làm ra lửa được, nhưng sau đó hiểu ý nói vợ chồng tác giả là hai hòn đá, cọ xát vào nhau sẽ tạo ra lửa. Vì cả hai cùng là thi văn sĩ trưởng thượng, vẫn tiếp tục giữ “lửa“ bằng những hoạt động văn nghệ như viết sách, làm báo để tiếng Việt khỏi mai một ở hải ngoại.
 
Dung ngẫm, nểu hai chị em vẫn quanh quẩn trong xóm nghèo lao động, buôn gánh bán bưng như mẹ ngày xưa thì cũng giống như hai cục đá vô giá trị, cũng đen đúa sần sùi.
 
Qua Mỹ, thế hệ con cháu của những người tù năm xưa, như những hòn đá sần sùi đen đúa được mài dũa thành những viên ngọc quý, họ đã đóng góp nhiều thành tựu như một cách trả ơn đất nước, đã cưu mang họ, vượt qua bao khốn khó mới có ngày hôm nay.
 
Khi được bảo lãnh qua Mỹ, hãy trân trọng tấm lòng bao dung nhân ái của người thân. Đừng đi vào “vết xe đổ“ làm rạn nứt tình cảm gia đình. Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
 
Quê hương vẫn là nơi để giữ trong ký ức. Nhưng cơ hội cũng chỉ đến một lần.
 
 
Lại Thị Mơ
 

Ý kiến bạn đọc
28/03/202520:13:12
Khách
Cảm ơn tác giả một bài viết hay.
11/03/202501:28:15
Khách
Có nhiều hiểu lầm từ nguời ở VN khi đi định cư ở Mỹ nên sinh ra trách móc. Có nguời nghĩ rằng nguời bảo trợ ăn chặn tiền trợ cấp chánh phủ, nhưng thực ra thì trợ cấp chánh phủ đến thẳng tay nguời định cư. Bảo lãnh theo diện ODP thì nguời bảo lãnh phải trả mọi chi phí, trợ cấp nếu có thì rất ít. Nguời đuợc bảo trợ lại nghĩ nguời bảo trợ đuợc trừ nhiều thuế mà không biết luật thuế chỉ cho giảm thuế tiền đóng góp cho từ thiện. Mình đóng cho hội từ thiện giúp nguời tị nạn 10 ngàn đô la một năm thì đuợc trừ thuế khoảng 2 ngàn (với mức thuế trung bình 20%), như vậy nguời bảo trợ vẫn bị mất 8 ngàn. Có nguời nghe đồn là cựu chiến binh VNCH đuợc Mỹ cho truy lãnh tiền luơng sau tháng 4/75 nên nghĩ là nguời bảo trợ ăn chặn, gây xích mích. Thành ra nguời bảo trợ phải chuẩn bị bị hiểu lầm về tiền bạc. Cách hay nhất là cho họ gặp những nguời đi truớc giải thích về quyền lợi để tránh hiểu lầm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 180,167
Ngày tháng trôi qua vùn vụt, mới đó đã nửa thế kỷ từ khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam. Năm nay hình như cơn buồn của người dân tỵ nạn tăng lên nhiều hơn, nỗi nhớ, nỗi uất hận cũng thấm đậm hơn. Tôi thấy nhiều hội đoàn xôn xao chuẩn bị ngày tưởng niệm mất nước trong “tháng Tư Đen” sớm hơn, thay vì những năm trước chỉ vào cuối tháng.
1975. Tháng Tư, thị trấn Sparks, tiểu bang Nevada. Ba chị em ngồi dán mắt trước cái tivi đài Mỹ đang chiếu tin tức thời sự. Màn hình hiện lên bản đồ hình chữ S có tên của ba thủ đô Hà Nội - Huế - Sài Gòn. Đường vĩ tuyến 17, chia cắt hai miền Bắc Nam rõ rệt. Bắt đầu từ Tháng Hai năm 1975 tôi đã theo dõi tin tức Việt Nam nhiều hơn, khi chiến trận giữa Bắc Nam ngày càng sôi động, cũng nhờ mấy bài báo cắt ra do Ngọc Anh em tôi gởi qua. Họ đưa hình bản đồ chữ S lên, Miền Bắc sơn màu đỏ, rồi màu đỏ vượt khỏi vĩ tuyến 17 tràn xuống Miền Nam. Màu đỏ lan xuống tới đâu, tôi rớt nước mắt tới đó...
Thông thường người đời hay nói con cái là hạnh phúc của cha mẹ. Hơi bi quan một chút thì người ta nói con cái giúp cho vợ chồng sống với nhau trọn đời vì con cái giúp họ tập trung vào chúng thay vì nhìn nhau và gây lộn mỗi ngày. Ở phía tiêu cực thì có người cho rằng con cái những chiếc gông mà bố mẹ phải đeo suốt đời. Người Mỹ thì nói rằng con cái giúp cho bố mẹ sống lại đời mình. Nghĩa là, khi có con, nhìn các con đi học mẫu giáo, rồi tiểu học, rồi trung học, bố mẹ như sống lại đời mình lần thứ hai. Họ cũng nói rằng con cái giúp bố mẹ thay đổi và trưởng thành hơn. Tất cả các lối suy nghĩ trên có lẽ đều đúng. Riêng bài này, xin chỉ tập trung vào cái nhìn tích cực của người Mỹ.
Ngôi nhà của họ nằm trên một làng nhỏ ven biển, nơi quanh năm chỉ có nắng và gió. Cuộc sống họ thật đơn sơ, bình yên như tiếng sóng biển rì rào bên ghềnh đá lở; ngày hai lần anh Hai vác tấm lưới cũ trên vai giong thuyền ra khơi vào sớm tinh mơ, rồi trở về lúc chiều tà với tôm cá nhảy lách tách trong thúng. Chị Hai ở nhà loay hoay với mớ hải sản khô, canh chừng thời tiết mưa nắng bất thường của ông trời. Chỉ cần sơ sẩy một chút là bao nhiêu công cán của hai vợ chồng bỏ sông bỏ bể. Cái ăn của con người ở đây luôn khó khăn vì phải phụ thuộc vào thiên nhiên, mà thiên nhiên nơi vùng biển khô cằn này đa phần là khắc nghiệt.
.Mỹ bỏ rơi Miền Nam Việt Nam. Người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam năm 1973. Bàn cờ thế cuộc đã thay đổi, những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu trong đơn độc và tuyệt vọng. Trong những ngày cuối cùng 30 tháng Tư 1975, dân chúng gồm cả lính tráng hay nhân viên công sở của Việt Nam Cộng Hòa đã tiêu hủy, xé đốt hết những giấy tờ hình ảnh có liên quan đến “ngụy quân ngụy quyền” vì sợ Việt Cộng trả thù. Trong khi chồng Mai còn kẹt lại ở đơn vị chưa thấy tăm hơi, Mai đã thay anh đốt đi nhiều hình ảnh lính tráng từ lúc anh tốt nghiệp quân trường Thủ Đức KBC 4100 đến những hình ảnh khác, cứ hình nào anh mặc đồ lính là Mai nhắm mắt nhắm mũi cho vào ngọn lửa...
Chiếc xe bus “Greyhound” lăn bánh chầm chậm vào bến ở Sacramento, miền Bắc của tiểu bang California vào một buổi chiều thu năm 1999 rồi từ từ dừng lại. Tôi bừng tỉnh khi đang ngồi quan sát cảnh vật bên ngoài, bởi mọi thứ, mọi người ở đây đều lạ lẫm đối với tôi vì tôi chỉ mới tới định cư tại quốc gia này có hai tháng thôi! Đứng dậy, vác chiếc ba lô đang để dưới gầm ghế lên vai tôi bước theo những người đi trước rời khỏi xe.
Ba thế hệ gồm có ông bà, cha mẹ và các cháu nội, ngoại cùng sống chung với nhau dưới một mái nhà là chuyện bình thường, cũng có thể xem là nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam, ảnh hưởng phần nào nền văn hóa Trung Hoa từ phương Bắc hơn ngàn năm trước. Tên gọi bằng chữ Hán Việt TAM ĐẠI ĐỒNG ĐƯỜNG nói lên được ý nghĩa cùng sự trân quý của giá trị truyền thống gia đình Việt Nam. Đó là sự đoàn kết, gắn bó các thành viên trong cùng một gia đình với nhau. Sau biến cố ngày 30/04/1975, nhiều gia đình Việt Nam rơi vào cảnh tan đàn, xẻ nghé, trôi dạt khắp nơi trên thế giới, hình thành những cộng đồng người Việt ở từng quốc gia khác nhau. mà lớn nhất là cộng đồng người Việt ở Mỹ, nơi tôi đang sống. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến ngày 30 tháng 4 năm 2025 là tròn 50 năm. Nửa thế kỷ trôi qua tưởng chừng như là giấc mộng. Nghĩ gì đây và làm gì đây để đánh dấu 50 năm ngày mà có “cả triệu người vui thì cũng có cả triệu người buồn”?
Tất cả mọi người miền Nam Việt Nam thuộc thế hệ thứ nhất đang định cư trên đất nước Hoa Kỳ hay các Quốc gia tự do khác, đã từng sống sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, không ai khỏi kinh hoàng giai đoạn ngập đầy nước mắt, sau ngày giải phóng miền Nam. Rồi cách này hay cách khác đồng bào thân yêu của chúng ta lấy sinh mạng đi tìm Tự Do. Những gia đình may mắn đến được bến bờ mong ước. Vùng đất hứa dang rộng vòng tay yêu thương chào đón mọi người, là những người thế hệ thứ nhất, lót đường cho thế hệ kế thừa vươn lên, sau năm mươi năm gieo giống, cánh đồng của người Việt tỵ nạn đã bội thu trong mọi lĩnh vực, Chính Trị, Khoa học, Quân Đội, Bác Sĩ, Kỹ Sư, Luật Sư, và nhiều ngành nghề khác, đã làm vẻ vang người Việt Nam trên đất nước Hoa Kỳ.
Lắm lúc, trong cuộc sống xa quê, có những mùi vị đặc thù của tuổi thơ tự nhiên ập về, đi kèm với bóng dáng của những người thân làm ra món ấy. Ví dụ như khoai lang lùi tro, bánh ít ngọt nhân đậu, bánh ít lá dứa nhân dừa, bánh tét nhân ngọt, nồi thịt kho tàu, xôi vò của bà Ngoại làm là ngon nhất; Bánh bèo, bánh bò hấp, bánh da lợn ăn với nước cốt, bánh ít trần, bánh bèo mặn ăn với nước mắm hay món giò heo giả cầy thì chỉ có Nội-Bà Bảy là số một. Ổi xá lỵ Florida cũng không thơm ngon bằng vườn ổi của Bà cô. Còn nữa, món cháo lòng của bác Tư Nhỏ cũng làm tôi nhớ đời. Tất cả những mùi vị món ăn của tuổi thơ luôn tồn đọng trong ký ức...
Sinh, Lão, Bệnh và Tử là lẽ thường tình của con người. Giàu, nghèo, sang, hèn, vua chúa, quyền cao chức trọng đến đâu, tất cả mọi người đều không thoát khỏi định luật này. Nói về bệnh hoạn thì bất cứ ai cũng đều phải gặp. Có nhiều loại bệnh. Nhưng bệnh ung thư có lẽ người ta sợ nhất. Vì đây là một căn bệnh hiểm nghèo, việc chữa trị tốn kém, khó khăn, mất rất nhiều thời gian và bệnh nhân ung thư chiếm tỷ lệ tử vong khá cao. Xin được viết vài hàng kể về việc chẩn đoán và chữa trị ung thư gan của tôi.
Nhạc sĩ Cung Tiến