Hôm nay,  

Vết Xe Đổ

04/03/202500:00:00(Xem: 3531)

 

TG Lai Thi Mo nhan giai Danh Du từ Giam khao Nguyen Viet Tan
TG Lại Thị Mơ (đứng thứ hai từ bên phải) nhận giải Danh dự VVNM 2023  từ Giám khảo Nguyễn Viết Tân

Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2017 và đã nhận giải Đặc Biệt năm thứ mười tám và giải Danh Dự năm 2023. Bà cho biết bút hiệu là tên thật, trước là nhà giáo tại Việt Nam, định cư tại New Jersey năm 1994 theo diện HO.
 
***
 
Dung vượt biên qua Mỹ lúc vừa xong trung học. Bố mất khi còn trong trại giam sĩ quan chế độ cũ. Mẹ cũng mất sau mấy năm bươn chải mua bán nuôi con. Hai đứa cháu mồ côi được cô mang về nuôi.
 
Khi Dung học xong trung học, cô tìm mối vượt biên cho Dung đi, bởi vì con “ngụy quân ngụy quyền” không thể vào đại học. Chuyến đi kinh hoàng suýt mất mạng, nhưng cuối cùng Dung cũng được nhận vào Mỹ, vì khai bố mất trong tù. Phái đoàn Mỹ khi phỏng vấn họ tìm ra tung tích bố dễ dàng, dựa vào tấm hình bố mặc quân phục ẵm Dung lúc 5 tuổi, cười nhe hàm răng sún thiếu 2 cái răng cửa.
 
Nhờ tấm hình Dung được phái đoàn chấp thuận cho vào Mỹ. Ưu tiên con cái của những quân nhân trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Chua xót thay bố Dung không bỏ mình trong chiến tranh, mà chết vì bệnh tật đói khát trong trại tù.
 
Qua Mỹ, Dung được cha mẹ nuôi người Mỹ bảo trợ. Sống với foster American parents, Dung yên tâm học hành. Biết thân phận mồ côi, Dung chăm lo bài vở, cố gắng học xong sớm, có việc làm để lo cho cô và em còn ở Việt Nam. “Ơn đền nghĩa trả“ cố gắng vươn lên hầu như là ý nguyện của tất cả những người sống sót sau những chuyến vượt biển kinh hoàng.
 
Ngày xưa chưa có Smart phone, không nhìn thấy mẹ, không có tiền về quê, những đứa con xa xứ chỉ đoán mẹ vui hay buồn qua giọng nói tiếng cười. Nhà thơ Trần Trung Đạo cũng là thuyền nhân đã gởi lòng mình bằng hai câu thơ tuyệt tác:
 
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
 
Dung chẳng có thì giờ về thăm, chẳng biết cô và em sinh sống ra sao. Chẳng bao lâu Dung lập gia đình với Hòa, cũng là boat people. Mười năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cả hai mới đi được, nên hiểu rõ mọi khó khăn cho những ai còn kẹt lại.
 
Lúc nào Dung cũng trĩu nặng suy tư lo cho em gái vẫn còn ở Việt Nam. Biết nỗi trăn trở của vợ, Hòa cũng khích lệ Dung bảo lãnh cho em. Bảo lãnh diện anh chị em là ưu tiên chót, rất lâu, từ 12 tới 15 năm. Mặc kệ Dung vẫn nộp hồ sơ cho Hạnh, miễn sao chị em đoàn tụ.
 
Mười năm lăn xả nơi xứ người, Dung hoàn toàn mù tịt mọi thay đổi ở quê nhà. Trong tâm khảm Dung chỉ nhớ cô em mới học lớp 6 khi chị vượt biên. Gây dựng lại cuộc đời nơi xứ người rất khó khăn, nhưng Dung vẫn cố gắng gởi về phụ giúp  cô và em mỗi tháng 400 đô cho cả hai. Đây là tiền riêng của Dung, Hòa không hề biết. Cuộc sống  gia đình nhỏ vẫn êm đềm trôi qua.
 
Mấy chục năm trước khi vật giá chưa leo thang, tiền lương hai vợ chồng có bằng đại học như Dung Hòa cũng không đến nỗi thiếu thốn. Gia đình vẫn có thể đi du lịch ít nhất một lần mỗi năm.
 
Từ ngày chia tay, tới khi gặp được em, đúng một phần tư thế kỷ, biết bao nhiêu thay đổi khó lường. Cô mất, được hưởng căn nhà, gặp thời giá lên, Hạnh bán, mua chung cư. Tiền dôi ra, Nguyên, chồng Hạnh mua xe van 6 chỗ để chở khách du lịch trong nước, làm kế sinh nhai. Hạnh cũng bỏ học khi Dung vượt biên. Ở Việt Nam không cần bằng đại học, buôn bán ngoài vẫn sống ung dung. Tiền kiếm được không bị đánh thuế. Khác hoàn toàn ở Mỹ, khi xin việc bao giờ cũng phải nộp tờ khai thuế năm trước.
 
Nguyên rong ruổi đường xa kiếm tiền, Hạnh ở nhà chỉ đưa đón con đi học, thời giờ rảnh rỗi đi hát hò nhảy nhót với bạn bè. Dung vẫn miệt mài đi làm nơi xứ người, tằn tiện để có tiền gởi về cho em, bên Việt Nam Hạnh nào có biết. Trong đầu chị vẫn nghĩ cuộc sống ở quê nhà rất khó khăn. Còn Mỹ “mang tiếng” thiên đường, hình như ai cũng nghĩ kiếm tiền dễ dàng như có cây tiền (money tree) trồng ở sân sau. Nên “quy Mã“ (qua Mỹ) vẫn là niềm ao ước của nhiều người.
 
Hồ sơ bảo lãnh quá lâu, gần 15 năm, Hạnh không còn là cô bé lớp 6 rụt rè nhút nhát năm xưa. Bây giờ Hạnh hoàn toàn lột xác, không còn lui cui trong xóm nghèo như hồi Dung ở nhà, có tiền rủng rỉnh tiêu xài phung phí, 200 đô mỗi tháng chẳng bõ bèn gì, nhưng của cho không ai từ chối. Chỉ có cái xe van để kiếm tiền, nhưng vẫn nghĩ mình là chủ, không phải đi làm thuê làm mướn.
 
Dung Hòa vẫn sống bình dị, hạnh phúc chan hòa khi có thêm đứa con thứ nhì. Ở Mỹ ai cũng phải làm việc, người lớn đi làm, trẻ con đi học đó là khuôn mẫu cuộc sống cho mọi gia đình. Đi làm để có tiền trang trải mọi chi phí. Thuế nhà rất nặng, không như ở Việt Nam có nhà không phải lo lắng gì nữa. Bảo hiểm nhà, bảo hiểm xe, bảo hiểm sức khỏe biết bao thứ tiền bắt buộc.
 
“Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.” Người lớn phải có việc làm. Trẻ con đi học để mai kia nuôi thân, xã hội bắt buộc như thế. Bên Việt Nam nghe lương dược sĩ, kỹ sư của Dung Hòa cả trăm ngàn/ một năm, ai cũng nghĩ đó là cuộc sống của giai cấp thượng lưu, gọi là “đại gia”, ở nhà to, đi xe đẹp chắc chắn phải có người giúp việc. Những người giàu có toàn ở biệt thự lộng lẫy, ông bà chủ, cậu ấm cô chiêu giống như trong truyện của Tự Lực Văn Đoàn. Gia nhân có tài xế, vú em, làm bếp, làm vườn. Thậm chí còn có người dắt chó đi chơi.
 
Hàng ngày có biết bao gia đình tan vỡ chỉ vì bảo lãnh người thân từ Việt Nam qua. Tất cả đều do không thực sự hiểu nhau. Chỉ có liên hệ gia đình mới được bảo lãnh.
Người đứng đơn là người “đứng mũi chịu sào”, chính phủ sẽ không giúp bất kỳ trợ cấp nào cho người tới định cư.
 
Định cư theo diện bảo lãnh, gọi là hợp pháp (legal) sẽ được hưởng mọi quyền lợi về luật pháp. Khởi đầu tạm trú, sau đó thường trú. Khi đủ thời gian quy định, thường trú nhân, tức là đã có green card (thẻ xanh), nếu không có tiền án sẽ được thi quốc tịch.
 
Con đường hợp pháp dài như thế. Nhưng đã hợp pháp dù chỉ tạm trú vẫn xin được việc làm, được đi học chữ, học nghề… còn trẻ con được ưu tiên đi học miễn phí 13 năm (từ mẫu giáo cho tới hết trung học).
 
Chính phủ luôn luôn tạo mọi điều kiện để vươn lên. Vì thế người ta gọi Mỹ là xứ cơ hội (Land of opportunities). Còn có muốn nắm bắt cơ hội để vươn lên hay không, tuỳ ý thức của mỗi người. Chỉ quét dọn ban đêm hay bưng bê ở tiệm ăn cuối tuần. Nhưng có biết bao cựu tù và con cái của họ vẫn kiếm được mảnh bằng đại học sau bao nhiêu năm vượt khó. Trẻ nhỏ thuộc loại ưu tiên hàng đầu. Không tốn tiền học, có xe bus đưa đón, cha mẹ làm ít lương thì con được ăn trưa miễn phí. Còn đòi hỏi gì hơn nữa?
 
Than ôi! Hạnh Nguyên nào có biết ngày xưa Dung Hòa cực khổ như thế nào. Căn nhà nhỏ chỉ vừa đủ cho bốn người, giờ nhét thêm bốn người nữa, biết bao thứ xào xáo xảy ra. Sau vài tuần đoàn tụ vui vẻ, giờ là lúc nhìn vào thực tế.
 
Thật bối rối cho Dung Hoà, vì Hạnh Nguyên không biết tiếng Anh, kiếm việc rất khó. Xin việc lao động bưng bê ở chợ hay quán ăn thì mang tiếng khi dễ, coi thường. Ngoài ra còn học lái xe và biết chút ít tiếng Anh để giao tiếp. Đó là bước khởi đầu gây dựng cuộc sống mới nơi xứ người. Ai muốn định cư nên chuẩn bị trước, cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định.
 
Về lâu dài 4 người không thể chen chúc nhau chỉ trong một phòng của nhà Dung Hoà, dù chỉ là ở tạm. Mướn Apartement thì ai trả? Dung Hòa choáng váng mặt mày. Không dám hỏi em mang qua bao nhiêu. Gồng gánh tất cả kéo dài được bao lâu? Hòa là người lịch sự, rất hòa nhã như tên gọi, nhưng cũng bắt đầu than thở:
 
- Trước kia kéo thùng rác và thùng recycle là việc của anh. Nhưng bây giờ có Nguyên, cũng là đàn ông, cả ngày rảnh rỗi sao không làm? Chờ tới tối, đi làm về anh vẫn phải mang ra?
 
Dung bây giờ “há miệng mắc quai “. Những chuyện nhỏ nhặt mỗi ngày mỗi nhiều. Tiền chợ, tiền điện gas tăng vùn vụt đến chóng mặt. Nhà cửa lúc nào cũng ồn ào, vì trẻ con giành nhau đồ chơi, không khí bắt đầu căng thẳng.
Khổ tâm nhất là Dung, hy sinh mọi thứ vì chỉ có Hạnh là em duy nhất. Tai này nghe Hòa than thở, tai kia nghe em kêu ca. Dung chỉ muốn gào lên, Dung đã phải đổi mạng sống, cắm đầu cắm cổ học hành, nhịn ăn nhịn mặc mới có ngày hôm nay.
 
Hạnh Nguyên sống dư dã, nhưng có phần buông thả, chồng thường xuyên vắng nhà đưa khách du lịch khắp nơi, cơm hàng cháo chợ. Thói quen ngồi quán tới khuya mới về. Nguyên không có khái niệm family man cần chia xẻ công việc nhà với vợ, trông con, cắt cỏ, cào tuyết… những việc hoàn toàn không có ở Việt Nam. Hạnh cứ đàn đúm ca hát nhảy nhót. Nguyên nhậu nhẹt la cà mỗi đêm.
 
Trẻ con lớn dần, đủ thứ rủi ro về bệnh tật như sốt xuất huyết vẫn có mặt ở Việt Nam theo chu kỳ mỗi năm. Hệ thống y tế, hệ thống giáo dục không thể so được bên Mỹ.  Từ xung đột tới cãi nhau nảy lửa. Cuối cùng giọt nước tràn ly, Hòa nhất định ly dị vì cho rằng Dung bênh em. Vài tháng sau Hạnh Nguyên theo bạn bè rủ rê, cũng dọn ra, tới tiểu bang khác. Thế là mọi thứ tan tành.
 
Mặc dù nghe nói nhiều cảnh tương tự xảy ra khi bảo lãnh người thân, nhưng Dung cứ nghĩ gia đình mình khác, không đến nỗi nào. Không bảo lãnh thì mang tiếng ích kỷ nhỏ mọn. Bảo lãnh qua thì bị chửi bới trách móc.
 
- Khổ như vậy, sao không nói? Để bây giờ nhà cửa bán hết rồi. Làm sao trở về?
 
Trăm nghe không bằng mắt thấy, dù có kể ra một lô những khó khăn sẽ phải đối mặt, nhưng người đi định cư không mường tượng được. Họ chỉ thấy đồng đô la vẫn ưu thế hơn tiền đồng trong nước.
 
Nhiều người để chuẩn bị cho người thân qua có việc, họ đã sốt sắng kiếm mua business nhỏ như quán ăn, tiệm giặt máy… dĩ nhiên họ phải đứng tên. Ai dè bị mang tiếng lợi dụng người thân. Thật là oan Thị Kính. Ách giữa đàng mang vào cổ.
 
Nơi chỗ Dung làm, có ông cụ than thở dỗ dành cậu út qua Mỹ để được gần con cháu lúc cuối đời. Không ngờ qua rồi, thấy vất vả hơn khi còn ở Việt Nam, cả con trai lẫn con dâu xúm vào chửi cụ té tát.
 
Thời gian trôi qua, những người được bảo lãnh định cư, đã nhìn thấy những ưu đãi mà họ không bao giờ có ở Việt Nam. Mỗi sáng xe bus đưa con đến trường. Đi khám bệnh không phải chầu chực. Không khúm núm xin xỏ hay năn nỉ nơi cửa quyền. Không lót tay lót chân, móc nối thậm thụt cửa trước cửa sau. Nộp đơn hội đủ điều kiện sẽ được giải quyết. Chạy xe đúng luật không sợ cảnh sát phạt.
 
Hạnh Nguyên sau vài năm ổn định, đã hiểu được tấm lòng bao dung của chị, hy sinh lo cho em quá nhiều. Nỗi hối hận muộn màng cũng không bù đắp được cho Dung mái ấm ngày xưa. Dung không giận hờn trách em, mà cho rằng tại duyên nghiệp gây cảnh chia lìa, tan đàn xẻ nghé.
 
Gia đình Hạnh Nguyên này đã hòa mình với cuộc sống mới. Nguyên bỏ thói quen la cà nhậu nhẹt sau mỗi buổi chiều. Hạnh cũng chẳng có bạn bè rủ nhau ca hát nhảy nhót, chỉ biết đi làm lo nội trợ trong nhà. Hai đứa con xong trung học đang chuẩn bị vào đại học.
 
Mỹ là nơi tạo điều kiện cho mọi người vươn lên. Hai đứa trẻ thích đời sống bên Mỹ, Hạnh Nguyên cũng không còn than van trách móc. Nếu Dung không đứng mũi chịu sào, bảo lãnh thì làm sao có được cuộc sống như bây giờ.
 
Trước kia sống theo lối “ăn xổi ở thì“ vì Hạnh Nguyên không nhìn xa, để thấy cuộc sống ở Mỹ bảo đảm tương lai cho con cháu. Miễn học phí cho hết trung học. Sách học được mượn từ thư viện, cha mẹ làm lương ít thì con được ăn trưa, có xe đưa đón đến trường. Lên đại học con nhà nghèo cũng được trợ giúp học phí. Ai cũng được mượn nợ, học xong đi làm mới phải trả dần theo khả năng. Về hưu nếu lãnh ít, chính phủ sẽ giúp thêm tiền mua thực phẩm, khám bệnh miễn phí hoàn toàn.
 
Được bảo lãnh định cư hợp pháp ở Mỹ là điều may mắn cho tương lai sau này của con cháu. Giáo dục rất tốt, hệ thống y tế thuộc hàng đầu trên thế giới. Không phân biệt kẻ giàu người nghèo, quan lớn hay dân đen cùng một thứ bệnh cùng cách trị liệu.
 
Đừng để những suy nghĩ tiêu cực giận hờn trách móc làm sứt mẻ tình gia đình. Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Những tiện nghi trong đời sống người dân của nước tiên tiến được hưởng, chắc chắn phải hơn những nước đang phát triển.
Vì qua Mỹ khi đã học xong trung học, nên Dung vẫn tìm đọc sách báo của các văn nghệ sĩ miền Nam, nhưng thích những người cùng bị tù như bố. Thi sĩ Trần Dạ Từ có bài thơ mà Dung rất thích.
 
Hòn đá làm ra lửa
 
Hai hòn đá đen đúa, sần sùi, không đáng một xu.
Dzụt gốc xoài, quạ không thèm mổ,
Quăng tận ổ, kiến không thèm bu.
Phơi giữa trại tù, kẻ thù không ngó.
Hợp đôi lại, chúng làm ra lửa.
 
Lúc đầu Dung nghĩ hòn đá làm sao làm ra lửa được, nhưng sau đó hiểu ý nói vợ chồng tác giả là hai hòn đá, cọ xát vào nhau sẽ tạo ra lửa. Vì cả hai cùng là thi văn sĩ trưởng thượng, vẫn tiếp tục giữ “lửa“ bằng những hoạt động văn nghệ như viết sách, làm báo để tiếng Việt khỏi mai một ở hải ngoại.
 
Dung ngẫm, nểu hai chị em vẫn quanh quẩn trong xóm nghèo lao động, buôn gánh bán bưng như mẹ ngày xưa thì cũng giống như hai cục đá vô giá trị, cũng đen đúa sần sùi.
 
Qua Mỹ, thế hệ con cháu của những người tù năm xưa, như những hòn đá sần sùi đen đúa được mài dũa thành những viên ngọc quý, họ đã đóng góp nhiều thành tựu như một cách trả ơn đất nước, đã cưu mang họ, vượt qua bao khốn khó mới có ngày hôm nay.
 
Khi được bảo lãnh qua Mỹ, hãy trân trọng tấm lòng bao dung nhân ái của người thân. Đừng đi vào “vết xe đổ“ làm rạn nứt tình cảm gia đình. Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
 
Quê hương vẫn là nơi để giữ trong ký ức. Nhưng cơ hội cũng chỉ đến một lần.
 
 
Lại Thị Mơ
 

Ý kiến bạn đọc
28/03/202520:13:12
Khách
Cảm ơn tác giả một bài viết hay.
11/03/202501:28:15
Khách
Có nhiều hiểu lầm từ nguời ở VN khi đi định cư ở Mỹ nên sinh ra trách móc. Có nguời nghĩ rằng nguời bảo trợ ăn chặn tiền trợ cấp chánh phủ, nhưng thực ra thì trợ cấp chánh phủ đến thẳng tay nguời định cư. Bảo lãnh theo diện ODP thì nguời bảo lãnh phải trả mọi chi phí, trợ cấp nếu có thì rất ít. Nguời đuợc bảo trợ lại nghĩ nguời bảo trợ đuợc trừ nhiều thuế mà không biết luật thuế chỉ cho giảm thuế tiền đóng góp cho từ thiện. Mình đóng cho hội từ thiện giúp nguời tị nạn 10 ngàn đô la một năm thì đuợc trừ thuế khoảng 2 ngàn (với mức thuế trung bình 20%), như vậy nguời bảo trợ vẫn bị mất 8 ngàn. Có nguời nghe đồn là cựu chiến binh VNCH đuợc Mỹ cho truy lãnh tiền luơng sau tháng 4/75 nên nghĩ là nguời bảo trợ ăn chặn, gây xích mích. Thành ra nguời bảo trợ phải chuẩn bị bị hiểu lầm về tiền bạc. Cách hay nhất là cho họ gặp những nguời đi truớc giải thích về quyền lợi để tránh hiểu lầm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 208,466
Từ ngày về hưu, Ông Tư thong thả, nhưng buồn! Hằng tuần, vào buổi sáng thứ Bảy, sau ngày xổ số Powerball Lottery, ông thường lang thang trong khu Phước Lộc Thọ, mong tìm gặp các bạn già rủ nhau uống ly cà phê, tán gẫu sự đời, bình luận thời sự chính trị … cho qua thì giờ. Gần mười hai giờ, chia tay các bạn già, ông thả bộ vào một tiệm 7- Eleven gẩn đó mua một tấm vé số Powerball, rồi về nhà ăn trưa.
Miếng ăn là miếng tồi tàn Mất đi một miếng lộn gan lên đầu. Câu nói dân gian trên chắc có lẽ chỉ được áp dụng tại Việt Nam hay những nước chậm tiến trong những năm tháng nghèo đói. Ăn uống là nhu cầu sống còn của con người và vì thế người ta nhiều khi phải đánh mất phẩm giá của mình để tồn tại. Tuy vậy, tôi thấy câu này vẫn có thể áp dụng tại Mỹ, đất nước giàu có nhất thế giới và đồ ăn thì dư thừa.
Một cô bé Mỹ lai Việt, khoảng 12-13 tuổi với mái tóc dài ngang vai quăn tự nhiên, ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt nâu tròn to, vai đeo một ba lô khá nặng so với thân hình mảnh khảnh của mình, hai tay ôm một em bé còn rất nhỏ chừng hai, ba tháng tuổi, cô bé đứng trong đuôi người nối dài xếp hàng ở trước cửa ngân hàng Bank of America, trên đường Harbor, Garden Grove, California chờ đến lượt mình. Những người đứng chờ phía trước thấy cô bé có con nhỏ bèn nhường chỗ để cô bé được tiếp sớm hơn, ai cũng tò mò nghiêng người nhìn vào bên trong lớp vải quấn đứa trẻ xem thử đứa bé ấy là con gái hay con trai, lớn nhỏ ra sao, có bà người Mỹ đứng sát bên lên tiếng: - Chắc cháu bé mới hơn hai tháng phải không? Còn nhỏ quá bế ra đây làm gì? - Sao không để nhà cho mẹ cháu giữ nó? Khuôn mặt của cô bé một chút ngỡ ngàng, lo lắng nhìn xung quanh không biết phải trả lời ra sao, chỉ yên lặng cúi nhìn đứa trẻ đang say giấc trong tấm khăn hồng êm ấm.
Ngôi nhà nằm ở một vùng ngoại ô, khuất sau những tàng cây cổ thụ, phủ đầy rêu phong và ký ức. Mỗi viên gạch, mỗi góc tường, đều như đang thì thầm câu chuyện về một gia đình đã từng hạnh phúc, ấm êm. Ông Lâm, với mái tóc bạc phơ như sương tuyết và dáng người gầy gò, liêu xiêu theo năm tháng, ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế mây cũ ở hiên nhà. Chiều tà buông xuống, nhuộm tím cả khoảng sân, mang theo hơi lạnh se sắt của cơn gió trở mùa, lay lắt những cánh hoa đỗ quyên đỏ thắm trước ngõ, như ngọn lửa nhỏ đang cố gắng níu giữ hơi ấm sắp tàn lụi. Mỗi cơn gió đi qua, ông Lâm lại khẽ rùng mình, không phải vì lạnh, mà vì nỗi cô đơn quạnh quẽ đang bám riết lấy ông từ hai năm nay. Từ ngày người vợ yêu quý của ông về với đất.
Mùa Hạ đã bắt đầu báo hiệu, các loài hoa thi đua nở đủ màu sắc tươi vui. Anh Quang bước ra sân theo tiếng gọi của vợ nhờ bưng phụ mấy chậu hoa quỳnh lên bệ cao, vì muốn ngắm nét đẹp của loài hoa trang đài đang nở hàng chục đóa hồng và vàng. Bé LiLy bước chân cao chân thấp đi theo cha cười hồn nhiên.
Có những người Cha tôi đã gặp Hiến dâng đời, phục vụ tha nhân Sáng danh Chúa, sống Phúc Âm Gieo lời Chân Lý xa gần nơi nơi … (KL) Đó là những vị linh mục mà tôi đã có dịp tiếp xúc trong thời gian bốn năm sống ở trại tỵ nạn Thái Lan. Nói về các Cha thời tỵ nạn thì có rất nhiều điều muốn nói, nhưng có nói thêm trăm ngàn lời cũng vẫn chưa đủ. Ở trại, chúng tôi may mắn có được các Cha người Việt Nam (cũng là nguời tỵ nạn vượt biên). Các Ngài là những người khởi đầu lập nên nhà thờ đơn sơ đầu tiên nơi trại cấm Panatnikhom, viết tắt là Panat, (gọi là Trại Cấm vì chúng tôi là những thuyền/bộ nhân đến trại tỵ nạn sau ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa không nhận người tỵ nạn, nên chúng tôi bị xem là bất hợp pháp, phải ở Trại Cấm chờ nước sở tại thanh lọc, xét duyệt tư cách tỵ nạn).
Trải qua bao thời gian, những người bạn cũ rời xa, những người bạn mới xuất hiện, nhiều khuôn mặt đến, rồi đi, như nước chảy qua cầu. Vậy mà có một khuôn mặt đặc biệt, ở lại rất lâu trong góc trái tim tôi, một nhỏ bạn thật đặc biệt. Đặc biệt, là vì nó là... người Nga. Tôi đã từng có ác cảm với dân tộc Nga, từ những ngày trước năm 1975, là năm đổi đời, đổi hướng tương lai của đa số dân tỵ nạn cộng sản. Ác cảm là vì, giống dân từ một quốc gia xa lạ và rất xa trên bản đồ trái đất, đầu tiên tạo ra chế độ Cộng sản, lại đầu độc cả thế giới qua cái chủ nghĩa Cộng sản ác nhân thất đức.
Thưa anh Don, tôi biết hương hồn anh đang hiện diện quanh quất đâu đây, trong khán phòng này và nghe được những lời tôi nói. Cảm ơn anh đã luôn là người hàng xóm tốt bụng. Anh thường xuyên cắt cỏ cho khoảng sân trước nhà chúng tôi khi cắt cho nhà anh. Không chỉ cắt thôi đâu quý vị, anh còn tỉa rồi thổi bằng máy thổi sạch bóng, từ sát cửa ra vào đến sân xe chạy. Lần nọ, nhà chúng tôi bị bể ống nước, ngập lụt ngoài phòng khách lên tận mắt cá, anh là vị cứu tinh đã khóa nước trước khi chồng tôi kịp về nhà. Bao lần chúng tôi quên đóng cửa “garage” qua đêm, anh luôn nhắn tin cho tôi “Cửa garage nhà chị còn mở đó nhe.” Tôi cảm thấy rất hổ thẹn vì chưa mời anh được một bữa ăn Việt Nam! Tệ thật! Tôi có mua biếu anh hộp bánh vào dịp Noel mấy năm nhưng nhìn lại thấy không đủ so với những gì anh đã làm cho gia đình tôi! Nhưng tôi vĩnh viễn không còn dịp nữa rồi!
Hàng năm, cứ qua giữa tháng Năm là nước Mỹ lại bắt đầu rộn ràng hơn cho ngày lễ hội Memorial Day sắp tới! Các “florist centers” lo chuẩn bị thêm nhiều hoa để cung cấp cho người tiêu thụ, những gian hàng đồ lưu niệm bày biện lắm thứ hơn để bán. Walmart, Krogers tấp nập khách hàng vì có đông người đi chợ cho các tiệc tùng ăn uống chiều hôm đó. Như chúng ta biết, ngày lễ này được long trọng tổ chức vào mỗi thứ Hai cuối cùng của tháng Năm nhằm vinh danh những người lính đã xả thân hy sinh trong quân đội Hoa Kỳ. Ngược dòng lịch sử và theo các sử gia thì cuộc nội chiến Mỹ được xem là có nhiều người chết nhất nên những nghĩa trang thành hình từ đấy. Vào mấy năm cuối của thập niên 1860 thì ở nhiều quận, hạt, tỉnh, thành, thiên hạ bắt đầu tới sửa sang, dọn dẹp vệ sinh cho những ngôi mộ của người thân mình, mang theo bông hoa trang hoàng cho các ngôi mộ đó; những chiến binh đã nằm xuống!
Là con trai trưởng trong một gia đình có chín anh em, tôi sống với Mẹ trong hầu hết bảy mươi bốn năm đời mình. Chỉ có hai lần tôi phải xa Mẹ lâu nhất, mỗi lần tám năm, đều liên quan đến nước Mỹ và Mẹ. Lần thứ nhất từ năm 1991 khi Mẹ đi tỵ nạn Hoa Kỳ theo diện H.O. Tôi kẹt lại quê nhà cho đến cuối năm 1998 mới đi đoàn tụ gia đình theo diện ODP. Đi hay ở, một quyêt định không phải dể dàng với tôi lúc bấy giờ. Những năm chín mươi sau những tháng năm sống vất vả, cay đắng và tủi nhục để kiếm sống và tồn tại, đứa con một sĩ quan tù cải tạo, nhờ thời kỳ mở cửa, các công ty nước ngoài lần lượt vào Việt Nam, tôi được làm việc cho văn phòng đại diện công ty Hoa Kỳ AMP tại Việt Nam. Mức lương 700 USD của một giám đốc kỹ thuật hồi đó là một con số rất lớn nếu so với đồng lương 50 USD của một kỹ sư mới ra trường.
Nhạc sĩ Cung Tiến