Hôm nay,  

Chiếc Hồ Trên Đá

19/12/202500:00:00(Xem: 405)

Molokini Crater_Ảnh Tường vi Lê
Ảnh minh họa từ Lê Tường-Vi;  Molokini Crater.
 
Tác giả là cư dân San Diego, đã hai lần thắng giải Viết Về Nước Mỹ. Năm 2001, với bài "Hoa Ve Chai", ông nhận giải danh dự. Ba năm sau, với bài viết "Giọt Nước Mắt," kể về Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam tại tiểu bang New Jersey do một kiến trúc sư Việt Nam vẽ kiểu, ông nhận giải chung kết Viết Về Nước Mỹ 2004. Ông tiếp tục viết bài và tham gia sinh hoạt giải thưởng VVNM hàng năm. Mùa lễ Tạ Ơn năm nay, tác giả gửi đến Viết Về Nước Mỹ một loạt 5 bài bút ký thấm đậm tình người từ trong gia đình đến những người thân quen của mình. Sau đây là bài thứ hai: “Chiếc Hồ Trên Đá”.

TG Sapy Nguyễn Văn Hưởng
Tác giả Sapy Nguyễn Văn Hưởng
 
***
 
Một chiếc hồ con nằm lặng yên trên đá,
Mà trong mắt trẻ thơ là cả vũ trụ xanh...
 
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
 
Tiếc thay, suốt bốn năm liền California oằn mình trong hạn hán, ảnh hưởng đủ đường đến đời sống cư dân. Không ai biết bao giờ tuyết và mưa mới trở lại như xưa để thảm cỏ trước nhà có cơ hội hồi sinh, để màu xanh công viên thôi lụi tàn.
 
Tôi vẫn nhớ hôm tiểu bang ban bố tình trạng khẩn cấp vì thiếu nước, nhà tôi nhận được một cú điện thoại kêu gọi tiết kiệm. Chồng tôi vui vẻ trả lời:
 
- Thưa cô, nhờ tiết kiệm nước mà sức khỏe vợ chồng tôi tốt lên nhiều lắm!
 
Giọng cô nhân viên ngạc nhiên:
 
- Dạ... ông vui lòng giải thích rõ hơn?
 
Nhà tôi thản nhiên đáp:
 
- Vì ngày nào vợ chồng tôi cũng tới phòng tập thể dục, tập xong thì tắm luôn ở đó!
 
Còn Thành, em chồng tôi, tếu táo khoe danh hiệu "vô địch tiết kiệm nước bang Cali":
 
- Chị Hai biết không, hồi trước một ngày em đánh răng ba lần. Giờ thì... ba ngày mới đánh một lần! Vậy đủ tiết kiệm chưa?
 
Điều khiến tôi buồn nhất không phải hóa đơn tiền nước, mà là mất trắng bốn mùa hoa Tần Ô. Ở San Diego, loài hoa ấy mọc khắp nơi: chỗ đất hoang, bên lề xa lộ, dọc những sườn đồi nắng cháy. Ngay sau nhà tôi, nơi lưng chừng đồi, cứ đầu tháng Hai là những bụi Tần Ô nhú xanh non; sang tháng Ba hoa nở vàng rực kéo dài suốt gần ba tháng. Màu hoa dân dã và đầy sức sống ấy từng làm lòng tôi rộn ràng; tôi rủ không biết bao nhiêu bạn bè cùng đến ngắm. Mất mùa hoa là mất đi những buổi rong chơi với các cháu, mất cả những khung hình tuổi thơ tôi treo trong nhà, giữ làm kỷ niệm trong album. Cứ nghĩ đến đó, tôi lại buồn đến tê tái lòng.
 
Vốn say mê chụp ảnh, tôi xem mỗi mùa hoa đến như món quà riêng của đất trời dành cho bà cháu tôi. Từ khi các cháu còn bé xíu, chúng đã trở thành "người mẫu" trong những buổi dạo đồng hoa. Mỗi lần đi ngắm hoa là một ngày đầy ắp tiếng cười, tay nắm tay, váy áo tung bay giữa trời hoa vàng, mây trắng. Mất mùa hoa nghĩa là mất luôn những buổi rong chơi và cả những khung hình rực rỡ nơi tuổi thơ đang cười tươi giữa nắng sớm lung linh. Những tấm ảnh ấy như một thứ quý giá nho nhỏ lưu giữ kỷ niệm, khiến tôi càng tiếc nuối khi mùa hoa vụt qua.
 
Ngoài hoa Tần Ô, San Diego còn nhiều cảnh đẹp làm say đắm lòng người. Công viên Balboa là một ốc đảo xanh giữa phố thị, với thảm cỏ mượt mà, hồ nước phẳng lặng. Rồi còn bao nhiêu viện bảo tàng, vườn Nhật, vườn xương rồng hòa quyện cùng kiến trúc Tây Ban Nha cổ kính. Mỗi bước chân dạo quanh như lạc vào một thế giới khác, vừa thư thái vừa gợi hoài niệm. Thành phố cũng nổi tiếng với những bãi biển, mỗi nơi một vẻ: La Jolla Cove với biển xanh như ngọc, vách đá ôm lấy sóng bạc; Mission Beach rộn ràng tiếng cười với xe đạp nối đuôi nhau chạy dọc bờ cát trắng; Sunset Cliffs, chỉ cần ngồi yên trên mõm đá, đôi chân thong thả đong đưa, mắt ngắm nhìn mặt trời lặn là lòng dịu hẳn lại.
 
Từ suốt mấy năm nay, một nơi cách nhà tôi chừng chục dặm đường đã trở thành chốn tôi hầu như tuần nào cũng ghé một hai lần: bán đảo Coronado. Muốn sang bên đó, tôi phải lái xe qua một cây cầu dài vắt ngang vịnh San Diego như dải lụa bê tông uốn cong mềm mại trên mặt nước. Đến giữa cầu, chiếc xe như được nâng lên để ngắm toàn cảnh thành phố với những tòa cao ốc lấp lánh và dòng nước êm đềm xanh trong mênh mang; đủ loại thuyền lướt qua, thuyền buồm, ca nô, du thuyền và thỉnh thoảng vài chiếc tàu hải quân hùng dũng diễn hành trước bao con mắt ngắm nhìn. Gió biển nhè nhẹ thổi lên làm mát cả thân người lẫn tâm hồn.
 
Qua khỏi chân cầu, tôi phải lựa chọn: rẽ vào công viên Tidelands với bãi cỏ xanh mướt, hàng cọ thẳng tắp và con đường xi măng sạch bóng để dạo bộ, hòa mình cùng trẻ con và các cặp đôi tận hưởng nắng vàng, gió mát, hoặc cứ thế chạy thẳng ra Coronado Beach.
 
Mấy lần đầu tôi đến rồi đi, biển Coronado không để lại ấn tượng đặc biệt nào; thậm chí còn khiến tôi khó chịu vì từ bờ xuống mé nước phải băng qua một bãi cát khô, nhiều đoạn dài cả trăm thước. Mãi sau một chuyến sang Hawaii, vợ chồng tôi mới khám phá ra thú vui đi chân trần trên cát, và từ đó nhìn Coronado bằng đôi mắt khác, như nhận ra một món quà bất ngờ vốn đã có từ lâu.
 
Coronado, một bãi cát dài quay ra Thái Bình Dương, bị căn cứ hải quân chặn hai đầu nên chỉ còn khoảng hai dặm dài cho người ta vui chơi; cát trắng mịn pha ánh kim trải như dải lụa, biển xanh ôm lấy đường chân trời, xa xa mái ngói đỏ của khách sạn Del Coronado nổi bật như lâu đài cổ tích. Đứng trước tòa nhà ấy, tôi nghĩ nơi này đã chứng kiến bao dấu chân người đời, từ thuở ông cha tôi còn đội khăn đóng đến hôm nay, một người đàn bà Việt xa xứ mới chịu đặt chân trần xuống cát để cảm nhận hết vẻ quyến rũ.
 
Mỗi buổi chiều, ánh hoàng hôn nhuộm đỏ cả bầu trời lẫn mặt biển; lớp cát khô ngày trước từng làm tôi ái ngại, giờ như đang xoa bóp dưới gan bàn chân. Càng đến gần mé nước, cát càng mềm mại, mát rượi, len vào từng kẽ chân và cả vào tâm hồn. Mỗi lần đặt chân lên cát, tôi thấy như được rửa sạch những lo toan nhỏ nhặt; mỗi hạt cát khắc một ký ức dịu êm vào lòng và gợi tôi nhớ về tuổi thơ, những chiều dắt trâu ra đồng, chân lội bùn mát lạnh in dấu trên mặt đất.
 
Từng bước trên cát Coronado như đưa tôi trở về, không hẳn vì cảnh vật giống nhau, mà vì cái gần gũi lặng thầm giữa thiên nhiên và lòng người. Mỗi chiều là một bức tranh mới: đôi tình nhân ôm nhau, em bé nhảy sóng, người chụp ảnh bên hàng dừa; khi mặt trời khuất, ánh đèn flash chớp lên như cố lưu giữ thêm vài khoảnh khắc cuối ngày.
 
Bãi biển Coronado thoai thoải hiền hòa; từ trẻ nhỏ đến người già, người biết bơi hay không, ai cũng có thể nô đùa với sóng hoặc nằm dài trên cát phơi nắng. Sau khi quen đi chân trần, tôi vẫn thấy quanh mình có những người "quê mùa" như tôi ngày trước, khó chịu chỉ vì vài hạt cát chui vào giày; nhưng rồi chính những hạt cát ấy lại đem về cho tôi nhiều niềm vui và kỷ niệm.
 
Những sắc vàng của hoa Tần Ô mà tôi từng bấm máy lưu giữ cho mấy đứa cháu nội nay đã nhường chỗ cho biển xanh, cát trắng và tiếng reo vui rộn ràng của hai đứa trẻ lớn lên bên tôi. Không đứa nào sợ nắng như bà, cũng chẳng ngại gió; ra đến biển, chúng như tan vào sóng: chạy không biết mỏi, miệng cứ thế hét vang, nhảy ùm xuống nước, rồi ngồi bệt nhặt vỏ sò, đuổi theo chim hải âu, tìm ông nội, thậm chí đòi chạy đua cùng ông.
 
Coronado gợi tôi nhớ những bãi biển quê nhà: Vũng Tàu với con đường cát trắng thoai thoải, Nha Trang với hàng dừa nghiêng bóng, Đà Nẵng chiều xuống rì rào tiếng sóng. Ở mỗi nơi màu nước, loại gió khác nhau, nhưng đều có điểm chung: gió mằn mặn thấm vào da thịt, tiếng sóng như nhịp tim biển cả, và hạt cát dưới chân lấp lánh như vụn vàng mặt trời. Giữa Coronado, tôi vừa thấy mình đứng ở một miền đất mới, vừa chạm lại những mùa hè đã xa.
Linzy, vốn quen xưng mình là "chị Hai", đứa cháu nội đầu lòng, sinh ra đúng vào năm tôi tròn sáu mươi. Sự vào đời của cháu ngày ấy là một nỗi lo lớn không chỉ riêng vợ chồng tôi mà cả bên sui gia cũng phập phồng theo dõi từng ngày. Linzy chỉ nằm trong bụng mẹ sáu tháng mười ba ngày; hình hài đỏ hỏn, bé xíu, nặng vỏn vẹn một ký năm gram. Cháu được đặt vào lồng kính như cái bụng mẹ bằng thủy tinh để giành giật từng hơi thở với sự sống. Suốt hai tháng trời cả nhà chỉ còn biết âm thầm cầu nguyện, mong sao chút sinh khí mong manh kia đủ vững vàng để bám trụ với cuộc đời. Mãi đến ngày được phép đón cháu về, ai nấy mới thở phào nhẹ nhõm như vừa vượt qua một trận bão lớn. Vậy mà giờ đây cháu đã tung tăng trên bãi biển, vừa cười vừa thách đố:
 
- Ông nội bắt con đi!
 
Còn tôi tha hồ bấm máy, lưu lại từng khoảnh khắc để mai này, khi các cháu lớn lên, chúng biết rằng đã từng có ông bà nội bên cạnh. Cái túi vải tôi luôn đeo trên vai mỗi lần ra biển chẳng có gì nhiều: áo quần khô, khăn tắm, nước uống, bánh mì, bánh ngọt, không dư thừa nhưng đủ cho một buổi dạo biển ấm áp. Mỗi lần nhìn cháu chạy nhảy, lòng tôi như tan chảy; tôi biết mình may mắn khi còn được chứng kiến và giữ lại những khoảnh khắc ấy.
 
Một hôm thấy tôi cầm vài chiếc lông chim hải âu đen trắng, Lya, cái tên bố mẹ đặt với ý nghĩa Love, You, Always, tròn xoe mắt hỏi:
 
- Bà nội nhặt mấy cái lông chim này làm chi vậy?
 
Tôi mỉm cười:
- Để khi cần vẽ mấy nét nhỏ thiệt nhỏ lên mấy bức tranh bà đang tô trên tường nhà.
 
Lya thích thú cầm lấy, rồi lượm thêm những mảnh sò bé tí, dúi vào tay tôi bảo cất vô túi. Có lần tôi nhặt được một chai rượu nhỏ, ngắt vài bông hoa dại bỏ vào, đưa cho cháu gọi là "bình bông du mục"; Lya ôm bình hoa cười khúc khích như nhận một món quà kỳ diệu.
 
Còn Linzy thì thích đắp cát lên người, múc nước đổ vào hố cát, vẽ số vẽ chữ bằng tay, những con số và chữ cái tôi mới dạy ở nhà. Một buổi chiều, khi đang đi dọc theo dãy đá, Linzy reo lên:
 
- Nội ơi, con thấy một cái baby lake!
 
Tôi nhìn theo ngón tay cháu: một vũng nước nhỏ trong veo nằm gọn trên phiến đá, khuất sau bụi cỏ. Trong mắt cháu đó là cả một cái hồ bí mật. Ba bà cháu rửa tay, rửa sò, hai đứa cháu nhúng cả đôi bàn chân bé xíu vào; Linzy mắt sáng rỡ:
 
- Linzy là người đầu tiên tìm ra cái hồ baby bí mật này! Từ nay con khỏi cần đứng chờ rửa chân ở vòi nước nữa nghen nội!
 
Lya phụng phịu:
 
- Chị Ba cũng thấy giống như chị Hai mà!
 
Tôi xoa dịu:
 
- Vậy cái "baby lake" này là của cả hai: chị Hai lẫn chị Ba.
 
Nhìn hai chị em hồn nhiên cười khúc khích, dẫm chân xuống vũng nước nhỏ trong đá, lòng tôi chợt nhớ tới một câu hát cũ khiến lòng se thắt: Bây giờ trong cái nón sắt của anh để lại trên bờ lau sậy này, chỉ có một con ễnh ương mượn vũng nước mưa đọng trong đó làm hồ. Trong cái nón sắt của anh bây giờ vẫn có đủ trời, vẫn mây hiền hòa trôi và bốn mùa vẫn về. Xuân muôn thuở dịu dàng, Đông rét lạnh, Thu khi xám buồn, khi rực vàng nắng quái, Hạ cháy lửa nung trời... Chiếc hồ nhỏ trong chiếc nón sắt bỏ quên giữa bờ lau sậy có thể là dấu tích cuối cùng của một người lính không trở về; còn cái hồ nhỏ hôm nay trên bãi đá Coronado là mảnh trời tuổi thơ lấp lánh, nơi sự sống tiếp tục nảy mầm qua tiếng cười của trẻ con, hai đứa cháu tôi.
 
Tôi không biết người chiến sĩ đã để lại chiếc nón ấy giờ ở đâu, có thể chỉ còn là một cái tên khắc trên bia đá. Nhưng tôi biết chính sự hy sinh lặng thầm của họ đã vun bồi cho buổi chiều bình yên này, với đứa cháu ôm "bình bông du mục" cười khúc khích, như thể cả thế giới chỉ còn lại niềm vui. Lòng tôi bỗng nghẹn lại trước hình ảnh quá khứ và hiện tại gặp nhau trong một khoảnh khắc mỏng manh, nhưng đầy ắp ơn nghĩa và tình người.
 
Chiếc hồ trong chiếc nón sắt và chiếc hồ trên bãi đá, hai hình ảnh, hai giai đoạn lặng lẽ nối nhau qua những thế hệ. Và tôi, người từng đi qua khói lửa, giờ bên cháu mình, thấy lòng ấm lại. Trong ánh hoàng hôn nhạt màu, tôi thầm cảm tạ Ơn Trên và gọi tên những người vô danh đã để lại cho đời những vũng nước nhỏ để cháu con mai sau có nơi in dấu bàn chân đầu đời. Bãi biển Coronado, trong khoảnh khắc ấy, hiện lên như một phép ẩn dụ cho những điều quý giá âm thầm ẩn mình giữa đời sống, chờ một bàn tay nâng niu để bừng sáng.
 
 
Sapy Nguyễn Văn Hưởng
 
Chú thích của TG:Viết theo lời kể của bà nội để riêng tặng vợ tôi và hai đứa cháu nội.
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 472,719
Hôm nay, trong lúc dọn dẹp các hồ sơ, giấy tờ và các thư từ cũ để chào đón năm mới, tình cờ, tôi bắt gặp một tấm thiệp Giáng Sinh đã phai màu theo thời gian của một người bạn cùng khóa 7/68 KQ viết gửi chúc mừng tôi cách đây 33 năm, khi gia đình tôi vừa đến San José. Thiệp chúc mừng Giáng Sinh và Năm Mới của bạn Nguyễn Xong Kiệt. Trong quan hệ bạn bè cùng Khóa, tôi không chơi thân với Kiệt. Thời gian thụ huấn giai đoạn một ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, và giai đoạn hai ở Trường Bộ Binh Thủ Đức, thỉnh thoảng gặp nhau, chỉ bắt tay chào hỏi xã giao.
Rời quê hương theo diện đoàn tụ gia đình, tôi đến Mỹ vào một ngày cuối năm 1998, đúng vào mùa Giáng Sinh. Lúc ấy, tôi gần tròn năm mươi tuổi. Chuyến bay đưa vợ chồng tôi và ba đứa con nhỏ đến thành phố Tulsa, một vùng đất nhỏ yên tĩnh giữa miền Trung nước Mỹ, nơi mùa đông tuyết phủ trắng trời. Ngày đầu tiên đặt chân đến nơi đây, tôi vẫn nhớ rõ, trên con đường nhỏ về thị trấn Broken Arrow-gió lạnh thổi táp vào mặt, hơi thở hóa thành khói trắng, đường phố vắng tanh, chỉ có ánh đèn Noel le lói sau các khung cửa sổ. Cả gia đình chúng tôi quây quần trong căn nhà nhỏ của người em gái, vừa mừng vừa lo. Đó là mùa Giáng Sinh đầu tiên trên đất Mỹ, nhưng trong lòng mỗi người đều chùng xuống, buồn và nhớ nhà vô hạn.
Không khí sáng hôm nay thật yên lành, bầu trời xanh lơ trong vắt như được kéo lên cao hơn. Xa xa, một dải mây trắng như chiếc khăn “voan’ trôi lặng lờ tạo cho cảnh vật êm đềm nơi đây thêm thanh bình! Trong cái không gian im ắng của những ngày giữa tháng Bảy ở thành phố Dayton, tiểu bang Ohio này thì tại phi trường DAY (Dayton-Ohio) vẫn vắng lặng. Không biết tự lúc nào, nó đã trở nên thưa thớt vì đa số các chuyến bay đều đổ dồn về phi trường lớn CVG (Cincinnati/ Northern Kentucky International Airport) ở cách đây hơn tiếng đồng hồ lái xe khiến cho đa số hành khách đều chọn đến và đi từ nơi đó làm cho giá vé ở phi trường nhỏ này thêm mắc mỏ. Tuy nhiên vì thằng con chúng tôi được đơn vị AFROTC (The Air Force of the Reverse Officer Training Corps) của nó chọn mua cho vé ở phi trường gần nhà nhất nên nó đi tại đây và hôm nay là ngày nó khởi hành tới căn cứ không quân Maxwell Air Force Base tại Alabama để được thụ huấn khoảng ba tuần.
Giờ này tôi mới tỉnh táo sống cho mình với dư âm của buổi phát giải “Viết Về Nước Mỹ” do Việt Báo tổ chức vào ngày 30 tháng 11 năm 2025 tuần trước. Sau ngày đó, buổi sáng ngồi xe đò Hoàng trên đường trở về, tôi mở phone lướt vội xem có thông báo gì quan trọng từ các hội văn thơ. Mạ ơi! phó chủ nhiệm của trang Văn Học Cỏ Thơm (VHCT) ghi thẳng tên tôi to lớn, yêu cầu họa lại bài thơ Đường Luật của chị Phương Hoa. Tiếp theo là thư của chủ nhiệm VHCT hối thúc nạp bài cho kịp ra flipbook tháng 12. Kế tiếp các em Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hòa họp trên zoom chuẩn bị tổ chức buổi thắp nến nguyện cầu cho nhân quyền VN. Các em yêu cầu tôi làm bài thơ về các nhân vật đấu tranh đang bị giam cầm trong nước, được giải nhân quyền năm nay. Thật tình mà nói tôi nay đã già, chồng bệnh, lái xe tệ, không muốn tham gia việc gì nữa, nhưng em Huy trưởng nhóm của HDBCL nói một câu chạm vào tim tôi “Cô ơi, chúng cháu rất cần ba thế hệ một tấm lòng ...”. Em là kỹ sư từ lâu sinh hoạt rất hăng say ngoài Cộng Đồng...
Ngày 30 tháng 11 năm nay tôi lại có dịp về thành phố Santa Ana, California để lãnh giải thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ lần thứ hai. Lần trước cũng vào dịp lễ Thanksgiving năm 2023, tôi được trao giải danh dự với hai bài viết : “Joe và Những Con Bồ Câu” và bài “Giữ Cháu Ngoại”. Lần này với bài “Viết Văn Ở Mỹ” và bài “Xin Đừng Đẻ Nữa”. Cứ mỗi hai năm thì Việt Báo tổ chức trao giải một lần. Lần này là năm 2025, đánh dấu 50 năm người Việt tị nạn, cũng là năm thứ 25 từ ngày Việt Báo mở ra diễn đàn Viết Về Nước Mỹ vào dịp 30 tháng 4 năm 2000. Diễn đàn mở ra cho tất cả mọi người không phân biệt tuổi tác, già trẻ, trai gái, thành phần nghề nghiệp. Ai cũng có thể bày tỏ tâm tư, tình cảm, suy nghĩ qua ngòi bút, viết ra những trải nghiệm của bản thân, gia đình, người thân, bạn bè và những người có cùng hoàn cảnh trên con đường tìm đến nước Mỹ sau cái ngày 30 tháng 4 oan nghiệt năm 1975, cũng như bằng cách nào mà mỗi người hội nhập vào đời sống Mỹ và trở thành công dân Mỹ như ngày hôm nay.
Không có sách thì không có văn minh vì những khám phá chân lý không được lưu truyền hậu thế. Nghĩa là không có khoa học, lịch sử, kinh kệ, hoặc bất cứ kiến thức nào được ghi chép lại để làm nền cho những bước xây dựng văn minh. Vì thế, chương trình Việt Báo Viết Về Nước Mỹ (VVNM) rất giá trị và quan trọng cho hơn trăm triệu người Việt nói riêng và thế giới nói chung để soi thấu tâm tình lịch sử của hơn hai triệu người Mỹ gốc Việt, hơn năm triệu Việt Hải Ngoại, và hơn một trăm triệu Việt quê nhà.
Khi đọc thông báo kết quả cuộc thi lần thứ 25 do Việt Báo (VB) tổ chức với đề tài Viết về nước Mỹ (VVNM) có tên mình trên đó, tôi đã không tin vào mắt mình, phải đọc đến hai ba lần vì tôi chỉ là hàng xóm của Mỹ thôi; giải không cao nhưng tự an ủi “ vạn sự khởi đầu nan”, tuy vậy trong lòng có một cảm giác lâng lâng, được đứng vào hàng ngũ một trong 18 người thắng trận văn chương trên toàn thế giới, mà ai cũng đã rất nỗ lực, viết thật hay, thật giỏi dưới đủ góc nhìn cuộc sống suốt hai năm qua 2023-2025. Đây không phải là giải văn chương hải ngoại đầu tiên tôi nhận được, nhưng điều làm tôi ấn tượng nhất là ngày phát giải được tổ chức rất long trọng mà tôi tình cờ được tham dự qua livestream năm 2023...
Chiều thứ Năm, ngay sau bữa cơm sum họp nhân dịp Lễ Tạ Ơn cùng cậu con trai, vợ chồng tôi cùng cô con gái thu xếp hành lý chuẩn bị lên đường. Chúng tôi tạm biệt con trai trong sự lưu luyến quen thuộc của những gia đình có con lớn sống xa nhà; vừa tự hào vì con trưởng thành, lại vừa nghèn nghẹn vì những cuộc gặp gỡ luôn ngắn ngủi. Dịp này càng đặc biệt hơn khi chúng tôi phải chia tay sớm, bởi cậu bận học hành, không thể cùng chúng tôi tham dự chuyến du lịch kết hợp tham dự lễ trao giải Viết Về Nước Mỹ lần thứ 25, một sự kiện mà chúng tôi đã mong chờ và chuẩn bị từ lâu.
Hồi tháng Tám năm nay, khi Việt Báo mới thông báo những tác giả trúng giải VVNM (Viết Về Nước Mỹ) 2025, tôi liền gọi điện thoại khoe ông xã dù biết chàng đang làm việc. Chàng trả lời tỉnh bơ: - Cuộc thi này coi bộ …dễ quá hả em? Tôi chưng hửng: - Anh nói vậy nghĩa là sao? - Thì em dự thi ba mùa, 2021-2023, và năm nay 2025, cả ba mùa đều trúng giải, không dễ thì là gì? - Ủa? Ủa? Hello? Không biết chàng thờ ơ hay đang bận tiếp khách hàng đến tiệm mua thuốc mà chẳng thấy trả lời! Chẳng lẽ nào chàng chỉ nói đùa, và có ý vừa khen vừa … mỉa mai tôi?
Hôm qua tôi đi tham dự lễ trao giải Việt Báo Viết Về Nước Mỹ (VVNM) lần thứ 25. Vậy là đã tám năm từ khi tôi tham dự lễ trao giải VVNM lần trước và hai mươi ba năm từ lần đầu. Có nhiều thứ đã thay đổi và cũng còn nhiều cái vẫn còn nguyên như hai lần trước. Khách mời danh dự năm 2002 có nhạc sĩ Phạm Duy, tài tử Kiều Chinh, nhà thơ Du Tử Lê, nhà báo Đỗ Ngọc Yến của báo Người Việt. Trong những người này chỉ còn tài tử Kiều Chinh có mặt ngày hôm qua. Nếu tôi nhớ không lầm thì năm đó cũng là năm bà Trùng Quang được vinh danh là tác giả cao tuổi nhất (92). Năm đó có lẽ tôi là một trong hai tác giả trẻ tuổi nhất (29), người kia là Orchid Lâm Quỳnh (?). Hôm qua, tại lễ trao giải VVNM, tôi vẫn còn là một trong ba tác giả lãnh thưởng trẻ nhất. Vừa đậu xe xong, bước ra là thấy tác giả trẻ tuổi nhất, Võ Phú, đang đi bên cạnh. Võ Phú tuy là tác giả trẻ tuổi nhất ngày hôm qua nhưng lại là một trong những tác giả nhiều “tuổi VVNM” nhất vì đã tham gia từ năm 2004...
Nhạc sĩ Cung Tiến