Hôm nay,  

Sơn Hào Hải Vị Không Bằng Mùi Vị Quê Hương

08/04/202500:00:00(Xem: 3484)
bo-sach-vvnm 
Tác giả Việt An sinh năm 1976, qua Mỹ năm 1993, định cư ở Austin, Texas. Cô từng là kỹ sư điện tử ở Intel, nay là nhân viên của bộ Ngân khố, đồng thời là thông dịch viên tự do. Sau bài viết đầu tiên “Giấc Mơ Mỹ”, cô tiếp tục đóng góp cho Viết Về Nước Mỹ bài bút ký hồi tưởng về các món ăn dân dã thuở ấu thơ mang đậm mùi vị quê hương.

***

Lắm lúc, trong cuộc sống xa quê, có những mùi vị đặc thù của tuổi thơ tự nhiên ập về, đi kèm với bóng dáng của những người thân làm ra món ấy. Ví dụ như khoai lang lùi tro, bánh ít ngọt nhân đậu, bánh ít lá dứa nhân dừa, bánh tét nhân ngọt, nồi thịt kho tàu, xôi vò của bà Ngoại làm là ngon nhất; Bánh bèo, bánh bò hấp, bánh da lợn ăn với nước cốt, bánh ít trần, bánh bèo mặn ăn với nước mắm hay món giò heo giả cầy thì chỉ có Nội-Bà Bảy là số một. Ổi xá lỵ Florida cũng không thơm ngon bằng vườn ổi của Bà cô. Còn nữa, món cháo lòng của bác Tư Nhỏ cũng làm tôi nhớ đời. Tất cả những mùi vị món ăn của tuổi thơ luôn tồn đọng trong ký ức. 
 
Bỗng dưng, tôi sực nhớ mùi ngọt lịm của khoai lang tím lùi thủa nào. Tiềm thức trỗi dậy, thôi thúc tôi xách xe chạy đi H-Mart, mua khoai lang. Lựa khoai xong, thấy có một xe đẩy ghi “Roasted Sweet Potato” - Khoai lang nướng! Khứu giác tôi làm việc tối đa: 

- A!  Cái mùi gì hửi quen quen trong không khí vậy ta, quen lắm?  
 
Vừa mở cửa ra thì đúng là khá giống mùi khoai lang lùi của tuổi thơ. Khoái chí tử, tôi chụp ngay một bịch đem về cho bé Việt Khuê ăn thử, em ấy ăn thấy ngon. Mẹ kể cho em ấy nghe đây là mùi khá quen thuộc của tuổi thơ của mẹ, hôm nay nó chợt sống dậy! Mà hình như không hẳn là mùi của tuổi thơ mẹ con ơi, tuy nó giống lắm, rất giống!  
 
Mẻ khoai lang tím tôi mua hôm nay sẽ chia làm hai: Một nửa hấp và nửa còn lại sẽ nướng để tìm lại mùi khoai lang lùi tro, trong lò chiên không dầu (air fryer), để lửa khoảng 350-375 độ F, trong khoảng 40-45 phút. Cũng không phải! Không thơm bằng mùi vị của tuổi thơ tôi! Hơi thiếu cái vị khen khét.  Ăn “đỡ ghiền” thì được! Phải chăng mùi thơm của rơm, được bàn tay của người nông dân Việt Nam cần cù, khắc khổ chăm chút, đã góp phần làm nên mùi vị đặc trưng của khoai lang lùi tro thuở trước?

Khoai lang nuong
Khoai lang nướng trong lò chiên không dầu (hình tg cung cấp)
Rồi tôi lại kể cho các con nghe:

- Các con biết không, hồi nhỏ, bà Cố sai mẹ nấu cơm bằng rơm. Mẹ bỏ củ khoai vô bếp rơm lùi rồi khi khoai chín, lấy ra, lột vỏ, vừa thổi vừa ăn. Ôi chao ơi là ngon! Lúc người ta đói ăn cái thứ gì cũng thấy ngon cả!

Việt Khải (con trai thứ của tôi) trố mắt hỏi:

- Mẹ vừa nói gì? Rơm ngựa ăn đó hả?

- Đúng đó con. Thời những năm 80, nhiều người Việt Nam chúng ta dùng rơm đốt thành lửa để nấu cơm.

- Sao có thể được chớ? Không thể tin được.  Việt Khuê bồi thêm.

- Chuyện có thật 100% đó con.  Mẹ phân bua.

Đứa nào cũng xoe tròn hai con mắt! Chắc chúng cũng tin vì Mẹ ít khi đùa giỡn trong những chuyện kể về quê hương. Tôi cố gắng mua khoai lang ăn thường xuyên để ngăn ngừa ung thư. Ngoài khoai lang, lúc đi chợ tôi còn mua bánh bò, bánh ít, bánh da lợn, lắm lúc ổi, để các con biết các loại bánh mà Nội làm bán để nuôi Ba và các cô tôi (vì ông Nội mất sớm khi cô Út được vài tháng tuổi), cũng để nhớ mùi vị quê hương. 

Gọi là ăn đỡ thèm thì đúng hơn nhưng không bao giờ tôi tìm lại được mùi bánh của Nội và mùi ổi thơm lừng trong ký ức từ vườn ổi bà Cô.  Ổi xá lỵ ở Mỹ lớn trái; ổi họ bán trong Costco thì thơm lắm nhưng không ngọt bằng ổi sẻ trong vườn bà Cô.  Lần nào cũng như lần nào, hễ thấy ổi là vườn ổi thơm lừng trong ký ức cứ dồn dập, đổ xô về như một thước phim quay chậm…

Bà Cô là chị em chú bác ruột của ông Nội tôi.  Nhà bà ở chênh chếch nhà tôi, cách cái mương đào và một con lộ. Gần 40 năm, vườn ổi có tiếng chim kêu ríu rít thường xuyên xuất hiện trong giấc mơ của tôi!

Nhà bà trồng đủ loại ổi: Ổi xá lỵ, ổi sẻ, ôi thôi nào là ổi, ruột trắng có, ruột đỏ có, cơ man là ổi. Ổi sạch cả!  Bà trồng ở cháy trên, cháy dưới, sân trước, sân sau.  Có những cây ổi lâu năm người leo lên được, những cây nhỏ thì phải có cây thọc. Cây thọc bằng trúc chẻ ở một đầu, độn hai miếng sắt tròn cho nó rộng ra thành cái rổ, cắt chỗ hở lớn bằng trái ổi rồi đưa lên cuống vặn, trái ổi xá lỵ rớt vô gọn lỏn trong đó.  
 
Bà Cô hay nhờ Hiếu hoặc tôi  hái ổi với Bà rồi cân  bán cho những người tới nhà mua, hoặc đem lên xóm chợ cân cho cô Ba Mành bán. Tôi và Hiếu được bà cho tiền.  Bác Ba Vịnh, con trai một của bà, rất có hiếu. Những năm cuối đời, Bác từ Sài Gòn về ở với Bà để tiện việc chăm sóc Bà.  Bà Cô ăn chay trường còn bác Ba thì nấu ăn ngon hết sẩy. Khi qua chơi gặp bữa, Bà và Bác hay bảo tôi ăn. Quả thật, người ta bảo ăn cơm khách lúc nào cũng ngon miệng hơn cơm nhà là đúng y, không sai một chữ.  Cơm nhà bà là cơm gạo nàng thơm trắng phao, thơm phức, cùng với chén kiểu cũng trắng tinh, có mấy hàng bông hường hường và đôi đũa mun, nội ăn cơm không là đủ ngon rồi, khỏi cần đồ ăn chi cả. Tôi còn nhớ lúc ăn cơm, Bà Cô và bác Ba hay để một chén cơm và đôi đũa cúng cô Tư, là em của Bác, người con đã mất sớm của Bà.

Bà Cô hay xách rổ, tôi thì cầm cây để hai bà cháu hái ổi. Bà luôn mặc áo bà ba trắng tinh, với đầu tóc bạc phơ cùng một búi tóc nhỏ tí ti đằng sau gương mặt có thật nhiều đồi mồi vì đã cao tuổi. Nhiều lúc thèm quá, tôi xin “bà Cô cho con ăn một trái nha”, có đôi lúc Bà cho ăn trước khi tôi xin. Hái xong, bỏ ổi vô rổ rồi cân bán.

Mùa ổi chín thơm lừng cũng thu hút muôn loài chim về ăn rồi kéo nhau ríu rít làm ổ. Tôi nhớ có lần thấy chúng xây ổ ở mái trên của mặt tiền nhà. Có những trái ổi trên cây, phía ven bờ hoặc ổi ruột đỏ chim ăn lở dở, rớt xuống mương, nổi lềnh bềnh. Lâu lâu có mấy con cá cửng, cá lóc trồi lên mặt nước đớp mồi nghe một cái “tốc”.

Khi Ba tôi đi tù cải tạo về, tôi bị hội chứng xa lạ với Ba (stranger anxiety) vì cả đời không gần gũi hay sao ấy.  Tôi không hề tới gần và chỉ kêu “Bờ-a” thay vì kêu“Ba”. 

Thế là bà Cô cho Ba những trái đu đủ, trái ổi mang về để lấy lòng con gái. Từ đó tôi mới gần gũi với Ba hơn. Con nít dễ bị dụ hay chính phụ tử tình thâm lâu ngày, khởi đầu bằng những trái ổi của bà Cô, hay cả hai, đã kéo tôi lại gần Ba hơn?
Ngoài sau nhà Bà Cô còn có cỏ mực, tôi được kể lại là mỗi lần tôi bị cảm sốt, bà Nội qua nhà bà Cô hái về, đâm nát ra và pha nước cho uống vì thời đó ở Việt Nam không có đủ thuốc. 
 
Gần 40 năm trôi qua, vật đổi sao dời, vườn ổi của bà Cô vẫn luôn thơm lừng trong ký ức của tôi! Nhớ Bà Cô cùng vườn ổi đã cho tôi một tuổi thơ với những kỷ niệm đẹp, sẽ thơm lừng cho tới nhiều đời sau!

Món kế tiếp của quê hương là cháo lòng. Nói về cháo lòng ở Mỹ, ăn cũng đỡ thèm thôi nhưng không qua mùi cháo lòng của bác Tư Nhỏ ở chợ Thâm Nhiên của tuổi thơ tôi. Có lẽ mùi cháo của Bác Tư ngon đặc trưng và thơm mùi đặc biệt trong ký ức mà sau này tôi không bao giờ tìm lại được. Hàng cháo lòng bác Tư Nhỏ ở phía trên, kế Lộ Đất.  Tô cháo lòng của bác Tư chỉ đơn sơ, lỏng lẻo, chỉ vài cụt huyết, dồi trường, vài lát ba rọi, thêm miếng chanh xanh xanh, vài lát ớt đo đỏ, dĩa giá trăng trắng, vàng vàng nhưng đó là những tô cháo ngon nhứt đời của bọn trẻ quê tôi. Một người bạn thuở thiếu thời của tôi, bạn Quí, cũng từng công nhận điều này.  

Tuổi thơ tôi rất thiếu thốn về vật chất nhưng đầy ắp tình thương, tình người. Giờ đây, với cuộc sống của người xa xứ, lại thiếu một vùng trời quê hương, xa vắng cả những người thân. Xa quá! Nhớ quá! Những người xưa lần lượt đã thành người thiên cổ: Nội, Ngoại, rồi dì Hai, cậu Năm… Những cô, dì dượng khác đã lưng còng, tóc bạc, nếp nhăn như dấu vết thời gian chồng chất trên tấm thân già yếu, bịnh tật! Thương lắm! Thời gian thật tàn nhẫn và vô tình, không thiên vị một ai.

Những mùi vị tuổi thơ nay đã càng xa hơn nữa vì tôi cũng sắp “ngũ thập nhi, tri thiên mệnh” - năm mươi thấu mệnh Trời rồi còn gì! Duy chỉ còn ký ức đẹp của một thời tuổi thơ vẫn còn tồn đọng mãi trong tôi. Có những câu chuyện về quê hương vẫn râm ran trong bữa cơm gia đình cho thế hệ kế tiếp; tôi sẽ truyền lại con cháu tôi, thế hệ thứ ba và sau nữa: Ngày xửa, ngày xưa… Ký ức về quê hương Việt Nam sẽ không bao giờ bị quên lãng.  Nó đã được chính thức lưu truyền thành văn bản qua đây!  Tôi cũng được đi nhiều nơi, thưởng thức được nhiều đồ ăn, đôi khi cao lương mỹ vị cũng có, nhưng sao lại không nhớ, không thèm một cách mãnh liệt như những món ăn trong tiềm thức? Phải chăng “chốn quê hương đẹp hơn cả”, như một bài tập đọc trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà có lần tôi đã đọc trên channel của mình, Tiếng Việt Sử Việt?

Những mùi vị thân thương của quê hương này không biết các con tôi có ngửi và cảm nhận được như tôi? Cứ mỗi lần thoáng ngửi được là hình bóng quê hương như ẩn, như hiện ra trước mắt. Có phải nỗi nhớ quê hương này thế hệ Ba Mẹ tôi cảm nhận được nhưng khắc khoải hơn, quay quắt hơn, da diết hơn gấp bội phần? Thế hệ của họ và cả của chúng tôi sẽ nằm lại trên quê hương thứ hai, nơi chốn tạm dung này. Hương hồn của họ và của cả thế hệ chúng tôi, khi mất, sẽ được quay về thăm lại cố hương, nơi chôn nhau cắt rún? Mong lắm thay!
 
Việt An
9 tháng 3 năm 2025
 
 
 

Ý kiến bạn đọc
08/04/202515:56:31
Khách
Cảm ơn tác giả một bài viết hay.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 258,070
Một cô bé Mỹ lai Việt, khoảng 12-13 tuổi với mái tóc dài ngang vai quăn tự nhiên, ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt nâu tròn to, vai đeo một ba lô khá nặng so với thân hình mảnh khảnh của mình, hai tay ôm một em bé còn rất nhỏ chừng hai, ba tháng tuổi, cô bé đứng trong đuôi người nối dài xếp hàng ở trước cửa ngân hàng Bank of America, trên đường Harbor, Garden Grove, California chờ đến lượt mình. Những người đứng chờ phía trước thấy cô bé có con nhỏ bèn nhường chỗ để cô bé được tiếp sớm hơn, ai cũng tò mò nghiêng người nhìn vào bên trong lớp vải quấn đứa trẻ xem thử đứa bé ấy là con gái hay con trai, lớn nhỏ ra sao, có bà người Mỹ đứng sát bên lên tiếng: - Chắc cháu bé mới hơn hai tháng phải không? Còn nhỏ quá bế ra đây làm gì? - Sao không để nhà cho mẹ cháu giữ nó? Khuôn mặt của cô bé một chút ngỡ ngàng, lo lắng nhìn xung quanh không biết phải trả lời ra sao, chỉ yên lặng cúi nhìn đứa trẻ đang say giấc trong tấm khăn hồng êm ấm.
Ngôi nhà nằm ở một vùng ngoại ô, khuất sau những tàng cây cổ thụ, phủ đầy rêu phong và ký ức. Mỗi viên gạch, mỗi góc tường, đều như đang thì thầm câu chuyện về một gia đình đã từng hạnh phúc, ấm êm. Ông Lâm, với mái tóc bạc phơ như sương tuyết và dáng người gầy gò, liêu xiêu theo năm tháng, ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế mây cũ ở hiên nhà. Chiều tà buông xuống, nhuộm tím cả khoảng sân, mang theo hơi lạnh se sắt của cơn gió trở mùa, lay lắt những cánh hoa đỗ quyên đỏ thắm trước ngõ, như ngọn lửa nhỏ đang cố gắng níu giữ hơi ấm sắp tàn lụi. Mỗi cơn gió đi qua, ông Lâm lại khẽ rùng mình, không phải vì lạnh, mà vì nỗi cô đơn quạnh quẽ đang bám riết lấy ông từ hai năm nay. Từ ngày người vợ yêu quý của ông về với đất.
Mùa Hạ đã bắt đầu báo hiệu, các loài hoa thi đua nở đủ màu sắc tươi vui. Anh Quang bước ra sân theo tiếng gọi của vợ nhờ bưng phụ mấy chậu hoa quỳnh lên bệ cao, vì muốn ngắm nét đẹp của loài hoa trang đài đang nở hàng chục đóa hồng và vàng. Bé LiLy bước chân cao chân thấp đi theo cha cười hồn nhiên.
Có những người Cha tôi đã gặp Hiến dâng đời, phục vụ tha nhân Sáng danh Chúa, sống Phúc Âm Gieo lời Chân Lý xa gần nơi nơi … (KL) Đó là những vị linh mục mà tôi đã có dịp tiếp xúc trong thời gian bốn năm sống ở trại tỵ nạn Thái Lan. Nói về các Cha thời tỵ nạn thì có rất nhiều điều muốn nói, nhưng có nói thêm trăm ngàn lời cũng vẫn chưa đủ. Ở trại, chúng tôi may mắn có được các Cha người Việt Nam (cũng là nguời tỵ nạn vượt biên). Các Ngài là những người khởi đầu lập nên nhà thờ đơn sơ đầu tiên nơi trại cấm Panatnikhom, viết tắt là Panat, (gọi là Trại Cấm vì chúng tôi là những thuyền/bộ nhân đến trại tỵ nạn sau ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa không nhận người tỵ nạn, nên chúng tôi bị xem là bất hợp pháp, phải ở Trại Cấm chờ nước sở tại thanh lọc, xét duyệt tư cách tỵ nạn).
Trải qua bao thời gian, những người bạn cũ rời xa, những người bạn mới xuất hiện, nhiều khuôn mặt đến, rồi đi, như nước chảy qua cầu. Vậy mà có một khuôn mặt đặc biệt, ở lại rất lâu trong góc trái tim tôi, một nhỏ bạn thật đặc biệt. Đặc biệt, là vì nó là... người Nga. Tôi đã từng có ác cảm với dân tộc Nga, từ những ngày trước năm 1975, là năm đổi đời, đổi hướng tương lai của đa số dân tỵ nạn cộng sản. Ác cảm là vì, giống dân từ một quốc gia xa lạ và rất xa trên bản đồ trái đất, đầu tiên tạo ra chế độ Cộng sản, lại đầu độc cả thế giới qua cái chủ nghĩa Cộng sản ác nhân thất đức.
Thưa anh Don, tôi biết hương hồn anh đang hiện diện quanh quất đâu đây, trong khán phòng này và nghe được những lời tôi nói. Cảm ơn anh đã luôn là người hàng xóm tốt bụng. Anh thường xuyên cắt cỏ cho khoảng sân trước nhà chúng tôi khi cắt cho nhà anh. Không chỉ cắt thôi đâu quý vị, anh còn tỉa rồi thổi bằng máy thổi sạch bóng, từ sát cửa ra vào đến sân xe chạy. Lần nọ, nhà chúng tôi bị bể ống nước, ngập lụt ngoài phòng khách lên tận mắt cá, anh là vị cứu tinh đã khóa nước trước khi chồng tôi kịp về nhà. Bao lần chúng tôi quên đóng cửa “garage” qua đêm, anh luôn nhắn tin cho tôi “Cửa garage nhà chị còn mở đó nhe.” Tôi cảm thấy rất hổ thẹn vì chưa mời anh được một bữa ăn Việt Nam! Tệ thật! Tôi có mua biếu anh hộp bánh vào dịp Noel mấy năm nhưng nhìn lại thấy không đủ so với những gì anh đã làm cho gia đình tôi! Nhưng tôi vĩnh viễn không còn dịp nữa rồi!
Hàng năm, cứ qua giữa tháng Năm là nước Mỹ lại bắt đầu rộn ràng hơn cho ngày lễ hội Memorial Day sắp tới! Các “florist centers” lo chuẩn bị thêm nhiều hoa để cung cấp cho người tiêu thụ, những gian hàng đồ lưu niệm bày biện lắm thứ hơn để bán. Walmart, Krogers tấp nập khách hàng vì có đông người đi chợ cho các tiệc tùng ăn uống chiều hôm đó. Như chúng ta biết, ngày lễ này được long trọng tổ chức vào mỗi thứ Hai cuối cùng của tháng Năm nhằm vinh danh những người lính đã xả thân hy sinh trong quân đội Hoa Kỳ. Ngược dòng lịch sử và theo các sử gia thì cuộc nội chiến Mỹ được xem là có nhiều người chết nhất nên những nghĩa trang thành hình từ đấy. Vào mấy năm cuối của thập niên 1860 thì ở nhiều quận, hạt, tỉnh, thành, thiên hạ bắt đầu tới sửa sang, dọn dẹp vệ sinh cho những ngôi mộ của người thân mình, mang theo bông hoa trang hoàng cho các ngôi mộ đó; những chiến binh đã nằm xuống!
Là con trai trưởng trong một gia đình có chín anh em, tôi sống với Mẹ trong hầu hết bảy mươi bốn năm đời mình. Chỉ có hai lần tôi phải xa Mẹ lâu nhất, mỗi lần tám năm, đều liên quan đến nước Mỹ và Mẹ. Lần thứ nhất từ năm 1991 khi Mẹ đi tỵ nạn Hoa Kỳ theo diện H.O. Tôi kẹt lại quê nhà cho đến cuối năm 1998 mới đi đoàn tụ gia đình theo diện ODP. Đi hay ở, một quyêt định không phải dể dàng với tôi lúc bấy giờ. Những năm chín mươi sau những tháng năm sống vất vả, cay đắng và tủi nhục để kiếm sống và tồn tại, đứa con một sĩ quan tù cải tạo, nhờ thời kỳ mở cửa, các công ty nước ngoài lần lượt vào Việt Nam, tôi được làm việc cho văn phòng đại diện công ty Hoa Kỳ AMP tại Việt Nam. Mức lương 700 USD của một giám đốc kỹ thuật hồi đó là một con số rất lớn nếu so với đồng lương 50 USD của một kỹ sư mới ra trường.
Cũng như bao đứa con trai khác, hồi bé tôi mơ ước được đi máy bay. Vì lớn lên ở Việt Nam sau 1975, mơ ước đó xem ra khó thành hiện thực. Thế rồi khi tôi 18 tuổi, giấc mơ ấy đã đến khi tôi leo lên chiếc máy bay TU134 của Liên xô tại phi trường Tân Sơn Nhất để đi định cư ở Mỹ theo diện bảo lãnh, như đã kể trong bài viết dự thi Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của tôi vào năm 2002. Ở Mỹ trên 30 năm, tôi đi máy bay tương đối cũng khá nhiều và cũng có nhiều kinh nghiệm lý thú để hôm nay kể cho quý vị thưởng thức.
Trời mới hửng sáng, bà Năm đã trở dậy. Căn nhà im lặng như tờ, giờ này mọi người còn đang ngủ cả, bà lặng lẽ đến bên bàn thờ, thắp nhang cho chồng. Tay run run, nhưng bà vẫn cố gắng không để tàn nhang rơi xuống thảm. Con dâu đã dặn bà chỉ được dùng nhang điện, nến điện, nó sợ mùi nhang và sợ tàn nhang làm hư tấm thảm đắt tiền. Nhưng bà nghĩ không có hương khói, người chết biết đường đâu mà về? Bà chỉ an tâm, sung sướng khi có ông bên cạnh, mặc dù ông bây giờ chỉ là một hồn ma. Hương khói làm ấm lòng bà, ấm lòng cả người đã khuất, bà không thể để bàn thờ chồng hương khói lạnh tanh....
Nhạc sĩ Cung Tiến