Tháng Tư, thị trấn Sparks, tiểu bang Nevada.
Ba chị em ngồi dán mắt trước cái tivi đài Mỹ đang chiếu tin tức thời sự. Màn hình hiện lên bản đồ hình chữ S có tên của ba thủ đô Hà Nội - Huế - Sài Gòn.
Đường vĩ tuyến 17, chia cắt hai miền Bắc Nam rõ rệt.
Bắt đầu từ Tháng Hai năm 1975 tôi đã theo dõi tin tức Việt Nam nhiều hơn, khi chiến trận giữa Bắc Nam ngày càng sôi động, cũng nhờ mấy bài báo cắt ra do Ngọc Anh em tôi gởi qua. Họ đưa hình bản đồ chữ S lên, Miền Bắc sơn màu đỏ, rồi màu đỏ vượt khỏi vĩ tuyến 17 tràn xuống Miền Nam.
Tin tức nói hàng ngày, các chiến hạm Hoa Kỳ đang di chuyển ngoài khơi, ai ra được họ sẽ vớt.
Gia đình bên chồng chị tôi và chồng tôi cùng làm giấy tờ bảo lãnh có sự bảo đảm việc làm của hãng may cho Má và bốn đứa em còn lại để qua Mỹ, kèm thêm điện tín, biểu ráng làm sao tìm đường ra biển để thoát khỏi Việt Nam vì nghe nói cộng sản mà chiếm được Sài Gòn thì họ sẽ thẳng tay sát hại những ai có liên hệ với Mỹ.
…
Tôi theo chồng qua Mỹ lần đầu vào cuối năm 1970. Tháng Hai năm 1973, sau khi hiệp ước đình chiến được ký kết giữa bốn bên là Việt Nam Cộng Hòa, Giải Phóng Miền Nam, Bắc Việt và Hoa Kỳ, chúng tôi bay về Việt Nam liền.
Đại gia đình sống trong vui vẻ sum họp khi chồng tôi làm việc tại căn cứ Hải Quân ở Vịnh Cam Ranh. Cuối năm 1974 chúng tôi phải trở lại Mỹ, đem theo hai đứa em gái là Hoàng Thư và Thúy Phương.
50 năm sau, nhỏ em Kim Loan kể lại phần này:
“Má nhận được điện tín và giấy tờ bảo lãnh mà làm sao ra biển được, may sao, một buổi chiều, anh Ngà bạn Ngọc Anh là lính Không Quân làm việc ở phi trường Tân Sơn Nhứt ghé thăm. Ảnh nói hiện nay mỗi ngày có xe buýt lớn tới liên tục trước tòa đại sứ Mỹ để rước người Mỹ và thân nhân, hoặc nhân viên làm việc cho sở Mỹ, vô phi trường TSN để làm thủ tục đi qua Mỹ bằng đường hàng không, nếu gia đình mình muốn đi thì sáng sớm ra đó sắp hàng theo người ta vô phi trường. Má nghe vậy quyết định tức khắc. Má gom hết tiền thủ để dành, chia cho mỗi đứa một ít để rủi ro có lạc nhau thì có tiền mà ăn. Mà lạc nhau thiệt. Tiền đã chia, má dặn mỗi đứa soạn một túi xách tay đem theo hai bộ quần áo, vài giấy tờ quan trọng như căn cước, khai sanh, vài vật dụng cá nhân, hình ảnh vv… Má chạy qua nhà chị họ kế bên là chế T., nhờ săn sóc con chó đừng để người ta bắt làm thịt tội nghiệp.
5 giờ sáng hôm sau mấy mẹ con ra đường kêu chiếc xích lô máy chở hết năm người. Buồn đứt ruột nhứt là con chó thương yêu chạy theo chiếc xích lô một khoảng đường xa mới mất hút.
Ra tới tòa Đại Sứ thấy một hàng dài người xếp hàng để đợi xe buýt. Người Mỹ với vợ Việt và thân nhân thì ít mà đa số người Việt làm cho sở Mỹ thì nhiều. Mấy mẹ con đi theo người ta. Ba đứa được lên trước nhưng tới Má với Phượng thì lại bị một người Mỹ to con đứng chận nguyên cánh tay cho thân nhân ổng lên hết là hết chỗ, má với Phượng bị lọt lại.
Tui, NA và Long leo lên xe trước, quá lo lắng vì vụ Má bị kẹt lại này.
Vô phi trường rồi, mấy chị em đi lòng vòng mới thấy một khu vực có nhiều người đứng đợi, thì ra chỗ này có máy nước người ta đang giặt giũ, tắm rửa… Có lẽ chỗ này lúc trước là khu vực trống để rửa xe? May mắn cho những người đã tới đây vài ngày trước cần nước để xài và tiếp tục chờ. Nhìn qua lại xa hơn chút lại thấy thiên hạ lu bu ngay hàng rào kẽm gai, kẻ trong người ngoài, người ở ngoài đưa đồ ăn vô bán cho người ở trong, nào là bánh mì, xôi, đa số là bánh mì ổ dài. Đang còn lẩn quẩn nhìn thì tình cờ thấy có một lỗ hổng ngay gần đó có thể một người nhỏ nhỏ chui ra chui vô được. Chắc có ai đó cắt chút hàng rào để ra vô buôn bán? Mừng quá nói với NA là tui sẽ ra bằng lỗ này và cũng chui trở vô bằng chỗ này. Tui hẹn gặp nhau tại chỗ người ta đang tụ tập xài nước. Vậy là NA và Long phải canh chừng cả tui và má với Phượng.
Chà cái lỗ này nhỏ hơi vướng víu quần áo nhe, nhưng coi như qua lọt cái vù. Vừa ra khỏi thì nghe tiếng anh xe ôm hỏi “Đi xe hông cô?” Tui nhìn anh ta thấy hơi sợ gì gì đó vì chưa bao giờ đi xe ôm. Rồi ôm ở đâu ta? Dự tính là sẽ kiếm xe xích lô đi nhưng nhìn anh thấy anh mời tội nghiệp nên tui mới nói “Anh chở tui tới đó rồi anh đợi tui chạy vô chút tui trở ra anh chở tui trở lại đây nha.”
Tới nơi chạy cái vù vô nhà thấy Dượng Bảy ngồi đó tui mới giải thích cho dượng biết chuyện đã xảy ra. Dượng hơi suy nghĩ chút rồi nói “Con trở vô đó liền, nếu đi được thì cứ đi chừng nào má con có trở về thì tính tiếp.”
Chạy trở ra anh xe ôm còn ngồi đợi. Tui lại chui lọt trở vô cái lỗ cũ thì hay tin Má vô được trong phi trường rồi. Mừng hết lớn! “
Má kể:
- Bị lọt lại, Má hồi hộp quá không biết có còn chuyến nào nữa không hay kẹt luôn rồi. May mắn có chuyến kế, Má với Phượng tới được phi trường nhưng lúc đó họ đóng cổng không cho ai vô ra nữa, Má sợ quá cứ đứng đó chưa biết tính sao thì không ngờ dịp may lại tới lần nữa, thấy chiếc xe hơi lớn màu đen ngừng ngay cổng chỗ má đứng, bà tài xế quay cửa xuống hỏi Má làm gì đây? Thì ra là bác Cúc gái hàng xóm. Bác là tài xế lái xe cho sở Mỹ nhiều năm nay, bác chở mấy người sếp Mỹ đi làm ra vô TSN mỗi ngày cho nên thấy xe là họ mở cổng. Bác nói hai mẹ con lên xe bác chở vô. Vậy là tất cả đều vào được trong phi trường rất đông người.
Sau cả ngày hai chị em cầm xấp hồ sơ sắp hàng nhiều lần không đúng chỗ, rồi hỏi han người xung quanh cuối cùng mới biết phòng này là chỗ cuối cùng để xin ghi tên vô chuyến bay. Ngoài trời tối lắm mà chỉ có hai chị em ngồi trên băng gỗ đợi. Đây là cửa sau của phòng đó, hy vọng cuối cùng rồi. Không biết đợi bao lâu trong đầu cứ nghĩ có đợi tới sáng cũng vẫn đợi mặc dù cả ngày quá mệt mỏi nhưng mắt vẫn canh chừng. Phía trong phòng đèn còn sáng trưng nghĩa là người ta vẫn còn đang làm việc. Nghe người ta nói lúc này họ làm việc 24/24.
Gần như thất vọng hoàn toàn thì tự nhiên thấy cửa mở có người Mỹ bước ra. Y mặc áo thun trắng sát nách mặt đầy mồ hôi, hình như muốn ra hít thở không khí bên ngoài. Thấy hai đứa con gái ngồi đợi, y hỏi vài câu mình không biết trả lời, chỉ đưa xấp hồ sơ, y kêu hai đứa theo vô văn phòng. Coi giấy tờ xong y hỏi bao nhiêu người đi, tui nói năm người rồi chỉ tên 5 người trên hồ sơ, y ghi gì đó trên xấp giấy tờ. Số hồ sơ là 193, rồi ghi lên miếng giấy nhỏ dặn dò ngày mai đứng xếp hàng chỗ đó đó với tờ giấy nhỏ này có giờ xếp hàng lên máy bay, từ 8 tới 10 giờ sáng. Mừng hết biết, chạy về cho Má hay. Má nói liền - Ba con phù hộ mẹ con mình đó!
Tới bây giờ tui vẫn nghĩ sao lúc đó lại ngồi đợi ở cửa sau? Tại sao không biết kiếm cửa trước mà đợi? Chắc nhờ vậy mà gặp hên hay đúng là Ba khiến ta?
Sáng sớm hôm sau đoàn người xếp hàng một dọc ngoài trời nắng, có hai hàng lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bồng súng đứng canh. Chiếc máy bay đậu đàng kia. Sau này mới biết đó là loại máy bay C-130.
Hơn hai tiếng đồng hồ. Đang đợi thì có một chiếc xe jeep chạy ào tới, người lính Mỹ lái xe jeep. Hai bên nói chuyện qua lại lâu lắm, giống như đang điều đình gì đó. Nghe nói, mới biết, người trên xe jeep muốn mấy người thanh niên tuổi lính phải ở lại để chống giặc. Như vậy có nghĩa là thằng em mình không được đi. Ai nấy lo sợ run muốn chết. Nhưng sau đó, điều đình xong, họ cho hết lên phi cơ.
Người lên đầy là họ đóng cửa bay liền. Họ cho lên lẹ lắm. Thủy Quân Lục Chiến bồng súng chĩa ra ngoài. Mấy mẹ con ngồi dưới sàn, sau cùng, sát cửa. Vừa sợ vừa mừng, mà mừng nhiều hơn vì chiều tối hôm đó phi trường bị Việt cộng pháo kích quá trời luôn.
Từ Việt Nam bay qua Phi, đáp xuống phi trường quân sự Subic Bay. Ở đó vài tiếng để chích ngừa xong mới vô nước Mỹ là Hawaii.
Từ Hawaii bay thẳng qua đảo Wake Island (hình như là đảo quân sự).
Ở hai ngày đêm, mới bay qua California. Chỗ này, lên bay một chút thì bay ngược trở lại ngừng sửa vì trục trặc gì đó làm ai cũng lo sợ muốn chết! Đến nơi rồi xe buýt chở tới Camp Pendleton.
Chỉ hai ngày trên đảo đã thấy lòng tử tế và sự chăm sóc chu đáo của những người lính Mỹ, từ giường gối khăn mền cho tới cái băng vệ sinh cho phụ nữ.”
Ôi, những con người văn minh đáng kính.
Má với mấy em bước vô phi trường TSN sáng ngày 25 tháng Tư, bay khỏi trưa ngày 27 tháng Tư năm 1975.
Một số trục trặc nhỏ trên đường có là gì, so với những thảm cảnh và mất mát của bao nhiêu vạn người đã gặp trên đường vượt biên, thuyền nhân hay đường bộ, những năm dài sau đó.
…
Trên đất nước Hoa Kỳ.
Khi gần như tuyệt vọng sẽ không bao giờ gặp nhau nữa, vào nửa đêm 29 Tháng Tư chúng tôi nhận được điện thoại của em Long cho hay gia đình được cầu không vận Hoa Kỳ bốc đi, đang đợi làm giấy tờ ở Hawaii, rồi chưa biết đi đâu.
Sau khi chồng tôi liên lạc hỏi tin, biết chắc nhóm người đó sẽ tới Camp Pendleton, chúng tôi tới đón Má và bốn đứa em về Sparks, tiểu bang Nevada.
Hai hôm sau, tháng Năm, có đài truyền hình Eyewitness News tới quay phim phỏng vấn, giống như một cách báo cho dân bản xứ biết về gia đình Má và mấy em là gia đình Việt Nam tị nạn cộng sản, đầu tiên, tới thành phố này. Báo chí cũng đưa tin, tôi còn giữ mẫu tin đó, tiếc quá, lúc đó đâu biết cách để xin copy của đoạn phim họ quay cảnh cái nhà chỉ có một phòng ngủ mà chứa tới 11 người.
Tuần sau nữa, họ tới tận hãng may để chụp hình quay phim Má tôi ngồi may, đưa vô tin tức, cho dân chúng biết, những người tị nạn mới sang đã có việc làm.
Thiệt là nhớ thời gian đó sao mà vui mừng hạnh phúc quá. Nhà có 6 người cùng làm chung một hãng, có khi làm từ sáng tới chiều, có khi làm thêm giờ, thì tới tối hù, ghé chợ mua hai con gà giá 99 cents mỗi con bự tổ chảng, rau cải, về luộc ăn mà sao ngon hết biết. Đó là thời gian ra khỏi nhà khi trời còn tối, về nhà thì trời cũng đã tối rồi, không thấy cái nhà mình ở sơn màu gì nữa.
Năm đầu, cả nhà, làm ngày làm đêm. Bán chiếc Pontiac “bù ệt” hai cửa bốn chỗ ngồi, mua chiếc xe van cũ, mới chở hết mọi người. Má và ba đứa em lớn đi làm, Phượng, Thư, Thúy còn nhỏ thì đi học, con tôi, mướn bà Mỹ tới nhà giữ trẻ. Tôi nhớ bà lắm, người rất hiền lành, thương con nít.
Năm 1976, tôi sanh đứa thứ ba. Mười hai người sống chung một nhà. Sau vài tháng, làm được bao nhiêu thì hùn vô, đổi chiếc xe van, mua hai chiếc xe hơi Chevy Oldsmobile mới tinh, thêm chiếc Honda cho em trai tôi, nó sơn lá cờ vàng ba sọc đỏ trên mui xe. Đi tới đâu thiên hạ dòm theo tới đó. Mấy đứa em biết lái xe, tự tin hơn.
...
Nhiều năm sau, qua vài tiểu bang, đổi vài chỗ làm việc, thay chỗ ở mười một lần.
Tôi đã nhìn thấy sự thăng trầm của nước Mỹ: - từ hồi lương căn bản chưa tới 2 đô la một giờ, ngồi may kiểu “ăn miếng”cả ngày; “ăn miếng” nghĩa là sau khi may đủ số ấn định, nếu may thêm miếng nào được trả tiền thêm miếng đó. Kim Loan và Ngọc Anh, may giỏi nhứt hãng, lúc nào lương cũng cao hơn người ta - tới năm nay, 2025, là từ 20 tới 25 đô la một giờ, tùy việc tùy công ty hãng xưởng.
Tôi đã từng làm nhân công dọn dẹp ở motel, làm thợ may, làm trợ lý văn phòng cho chồng tôi, đi học nghề, làm giảng viên trường thẩm mỹ và sau cùng làm giám khảo chấm thi cho Hội Đồng Thẩm Mỹ, tiểu bang California, 25 năm.
Tôi có bạn đồng nghiệp, có những học viên, đến từ nhiều nước trên thế giới.
Tôi chứng kiến đời sống của dân bản xứ, nghèo giàu như thế nào, sự thành kiến, óc kỳ thị, màu da, chính trị, tôn giáo, ra sao.
Tôi đã thấy người có mái nhà để chui ra chui vô, cũng có những thân phận thiếu may mắn, sống tạm bợ trong mấy cái lều rách, hay nằm ngồi vật vạ trên lề đường, dưới gầm cầu.
Ngày xưa dân Da Đỏ dựng lều “Tippy” để sống là theo phong tục tập quán, ngày nay cái lều tạm bợ vá víu là vì không có cái nhà để ở, nay, dân vô gia cư vì bao nhiêu lý do, thất thế, mất việc, rượu chè, ma túy, hay tâm thần?
Tôi đã từng sống trong khu nhà lợi tức thấp, thiếu thốn tiện nghi, đôi khi không có gì ăn. Và cũng đã sống trong ngôi nhà khang trang vững chắc.
Nhà cửa thời 1975, ở Reno, Nevada, một căn nhà có sân trước sân sau rộng rãi, 3 phòng ngủ hai nhà tắm như nhà tôi mua trong một khu tương đối an toàn dễ hòa nhập, chỉ trên 35 ngàn đô la thôi. Bây giờ nghe nói căn nhà đó cả triệu rồi.
Tôi đã chứng kiến cảnh “biển dâu” tại California. Chúng ta đã biến những khu vườn cam rẫy dâu trở thành một Tiểu Sài Gòn trù phú. Trên dưới hai triệu dân tị nạn đem quê hương thứ nhứt trồng vào quê hương thứ hai.
Tôi đã từng phất cao lá cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tình chống cộng. Và cũng rửa mắt, nhìn từng đàn người cộng sản nhởn nhơ trên phố.
Chúng tôi rất biết ơn, nước Mỹ và nhiều quốc gia trên thế giới tự do, đã bao dung, nhân đạo, mở rộng vòng tay ra cứu vớt, “thuyền nhân” lúc đó như những dề lục bình dập dình trên biển cả hãi hùng. Họ đón số người di dân tiên phong, bằng đường biển hay đường bộ, thoát chế độ cộng sản, và cũng đau buồn khi hàng trăm ngàn người, bằng cách này cách khác, đã vùi thây trên con đường tị nạn.
Thời còn trẻ của chúng tôi, từ giữa thập niên 70, 80, 90, 2000, sức làm việc, lòng nhiệt huyết muốn thay đổi đời sống cho khá hơn, rất cao. Sống trên đất người, muốn bằng người bản xứ thì chúng tôi phải làm việc như gấp đôi. Chúng ta xử dụng máy móc đi đôi với sức con người. Dùng sức lực điều khiển cơ khí nhưng không lệ thuộc. Luôn kiên nhẫn học hỏi, giỏi đáp ứng, từ trong gia đình ra ngoài xã hội, bằng trí óc quân bình, từ trường học hay trường đời.
Tôi đã thấy bao thất bại và thành công trên mọi phương diện. Mà cũng thấy, đã có bao nhiêu nhân tài đóng góp cho nước Mỹ, tạo nên một thành phần ưu tú trong đủ mọi ngành nghề.
Vậy mà, có thành công được sự nể phục, có thất bại gây nhiều tai tiếng.
Thế hệ trẻ ngày nay, nhân trí rất cao, giỏi, nhưng, hình như lệ thuộc vô khoa học, kỹ nghệ tân tiến nhiều hơn.
Con cháu chúng ta được sống trong nước Mỹ, thế giới tự do, chế độ đa đảng.
Có khi, hai người ở hai đầu con sông Tương. Ở giữa, làm sao để chiếc cầu không gãy nhịp?
Từ Việt Nam sang đến Hoa Kỳ. Mong mỏi có người tài đức, đứng mũi chịu sào, đẩy lui cái đám người xảo quyệt gian manh.
Khi muốn sửa sang một cái nhà cũ, hư hại, thì phải xem xét, thay thế những mụt nát bằng những lành lặn. Vẫn biết những sự thay đổi bây giờ là chuyện khó như lấp biển vá trời nhưng, nếu không cố gắng khởi sự bây giờ thì thế hệ con cháu chúng ta, suốt ngày cắm đầu vô cái điện thoại, không đứng lên chống đối, ngại ra sức lao động để làm việc, rồi sẽ bị lệ thuộc dưới sự thống trị của quân tham gian cuồng bạo, là điều hiển nhiên.
---
Sài Gòn mất, cũng gần như lần lần mất đi sự trong sáng của chữ Việt, tiếng Việt.
Hy vọng giữ gìn tiếng Việt của thời Việt Nam Cộng Hòa, Giải Thưởng Viết Về Nước Mỹ do tờ Việt Báo thành lập từ năm 2000, được sự hưởng ứng mạnh mẽ của công chúng.
Nhiều năm trôi qua, từ xã hội tới gia đình, theo luật Sinh Lão Bịnh Tử, có nhiều mất mát đau lòng.
Chúng tôi đã mất ba vị, nhà văn/ giám khảo Thảo Trường, nhà văn/nhà báo/giám khảo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, nhà văn Bồ Tùng Ma và ba tác giả cao tuổi, người đầu tiên tham dự Viết Về Nước Mỹ là cụ Nguyễn Gia Mai, bà Trùng Quang và Má tôi, Đỗ Thị Bông.
Năm 98 tuổi, Má tôi đã đi tìm Ba dưới đáy Biển Đông.
Em trai tôi tới miền hư vô khi tuổi chưa già, còn có thể làm bao nhiêu chuyện.
Tôi mất chồng. Phu thê giống như cái nồi vừa với cái nắp, nồi mất nắp thì nấu gì cho ngon? Như đũa có đôi, mất một chiếc thì lùa cơm cả ngày chưa hết chén.
Còn chúng ta, cũng đang kẻ trước người sau, tới trạm cuối cùng.
Và mặt trời vẫn mọc ban ngày, trăng sao vẫn sáng ban đêm.
…
2025.
Là năm đánh dấu nửa thế kỷ từ khi Miền Nam Việt Nam bị cưỡng chiếm.
Tôi cám ơn, ngày xưa em Ngà đã cho tin, cám ơn bác Cúc đã chở Má và các em tôi qua cổng phi trường, cùng quyết định dũng cảm chớp nhoáng của Má tôi, đem con qua Mỹ dù không biết một tiếng Anh, tương lai mịt mù, hồi cuối Tháng Tư năm 1975.
Và, 50 năm dài đằng đẵng trôi qua, vẫn còn có những người đang khóc mà lệ không rơi ra khỏi trái tim mình./.
Trương Ngọc Bảo Xuân
Ngày 27 Tháng 4 Năm 2025
Ý kiến bạn đọc
30/04/202522:13:04
Mimi
Khách
Cảm ơn Tác giả chia sẻ bài viết, chúc Cô nhiều sức khỏe và viết thêm nhiều bài nữa.