Hôm nay,  

Ông Tư Vé Số

6/20/202500:00:00(View: 475)

TG Lê Đức Luận (đứng giữa) nhận giải Danh Dự VVNM 2023
TG Lê Đức Luận (đứng giữa) nhận giải Danh Dự VVNM 2023
 
Tác giả Lê Đức Luận lần đầu tham dự VVNM với bài “Ngẫm ra mới thấy thèm”. Tốt nghiệp Khóa 1 Trường ĐH/CTCT/ Đà Lạt, trước năm 1975 ông là sĩ quan, làm việc trong Ủy Ban Binh Thư - Tổng Cục/CTCT/QL VNCH – Sài Gòn. Sau năm 1975, Ông bị “tập trung cải tạo” 7 năm. Sang Mỹ năm 1986. Tác giả vừa nhận giải Danh Dự năm 2023. Sau đây là câu chuyện nhẹ nhàng về một vị cao niên gốc Việt thích mua vé số Powerball.
 
***
 
Từ ngày về hưu, Ông Tư thong thả, nhưng buồn!
Hằng tuần, vào buổi sáng thứ Bảy, sau ngày xổ số Powerball Lottery, ông thường lang thang trong khu Phước Lộc Thọ, mong tìm gặp các bạn già rủ nhau uống ly cà phê, tán gẫu sự đời, bình luận thời sự chính trị … cho qua thì giờ.
Gần mười hai giờ, chia tay các bạn già, ông thả bộ vào một tiệm 7- Eleven gẩn đó mua một tấm vé số Powerball, rồi về nhà ăn trưa.
Nếu chỉ có thế thì không có gì đặc biệt để viết thành một truyện ngắn?
Nhưng ông Tư là một ông già đặc biệt và khác người. Thế mới nên truyện. Xin kể lại cho bà con nghe chơi…
Cái đặc biệt là ông vào tiệm 7- Eleven chỉ để mua vé số. Và chỉ mua độc một vé Powerball thôi! Rồi đi ra khỏi tiệm - không hề nhìn ngang, ngó dọc xem trong tiệm có bán thứ gì.
Cái khác người là dù nắng, mưa, nóng, lạnh thế nào ông cũng khoác chiếc jacket lính rằn ri, đầu đội mũ nồi (beret) màu xanh đậm, mặc quần jean, chân đi dép nhựa, trông không giống ai! Bao nhiêu năm nay ông vẫn mặc như thế khi vào tiệm 7- Eleven. Và như một lịch trình cố định, ông chỉ xuất hiện mỗi tuần một lần vào ngày thứ Bảy, đúng mười hai giờ trưa.
Và nếu chỉ có thế thì cũng không có gì hấp dẫn để viết!
Nhưng câu chuyện trở nên dài dòng bắt đầu từ hai nhân viên đứng bán hàng trong tiệm 7- Eleven. 
Tiệm 7- Eleven thường chia ba ca (shift) làm việc trong 24 gìờ, mỗi ca tám tiếng đồng hồ: sáng, chiều và tối. Thịnh và José làm ca sáng - từ 6:00 giờ sáng đến 2:00 giờ chiều. Hai anh thanh niên này cùng lứa tuổi, có hoàn cảnh khiêm tốn giống nhau, nên dễ chơi thân. Thịnh được vào nước Mỹ nhờ theo cha trong diện HO. José, người Mexico được thân nhân bảo lãnh vào nước Mỹ thông qua chương trình di dân. Họ là đôi bạn năng nổ và cầu tiến - sáng làm việc ở 7-Eleven, chiều đi học ở Đại học Cộng đồng (Community College). Cả hai cùng ấp ủ “giấc mơ Mỹ - American dream…”
Tình bạn mỗi ngày thêm gắn bó. Thịnh muốn học tiếng Tây Ban Nha (Spanish), José muốn học thêm tiếng Việt để tạo thêm cảm tình và phục vụ tốt cho khách hàng vì đa số khách hàng ở tiệm này là người Mễ và người Việt. Thế là hai đứa chỉ dạy ngôn ngữ cho nhau….
Một hôm, Ông Tư vào mua vé số như thường lệ. Tiệm có hai cái máy tính tiền, Thịnh một máy, José một máy. Ông Tư sắp hàng chờ trả tiền vé số. Lúc đó tới phiên José bấm máy.
Những lần trước, khi chưa học tiếng Việt, mỗi lần tính tiền, José vui vẻ nói với Ông Tư bằng tiếng Anh: “Hi Mr Tư. Good luck!” (Chào ông Tư. Chúc may mắn!)
Ông Tư đáp ngắn gọn: “I hope! Tôi hy vọng vậy!” Rồi bước ra khỏi tiệm.
Nhưng lần này, sau khi học được một số tiếng Việt, nó muốn thực tập, nên nói: “Hi cô Tư! Chúc may mắn!”
Ông Tư quắc mắt nhìn nó, rồi đổ quạu, quát: “Không được gọi tôi như thế! Hiểu chưa?”
Nghe Ông Tư to tiếng mắng thằng José, Thịnh quay sang hỏi, mới rõ nguồn cơn. Thịnh xoa tay từ tốn, nói với Ông Tư: “Xin lỗi ông Tư, con dạy nó nói tiếng Việt, mới bì bõm mà nó muốn trổ tài. Xin Ông Tư thông cảm, tha lỗi cho nó.”
Chẳng nói năng gì, Ông Tư quay lưng ra khỏi tiệm. Thằng José tỏ vẻ lo lắng!
Nó lo lắng bởi vì chuyện này mà đến tai quản lý, có thể nó mất việc vì cái lỗi: “làm mếch lòng khách hàng!”
Đối với José, tìm được một chân bán hàng trong tiệm 7- Eleven là điều may mắn, là một cái job thơm! Các bạn bè người Mễ của nó làm việc chân tay nặng nhọc, chịu cảnh nắng mưa vất vả mà tiền kiếm được không hơn nó bao nhiêu, lại không có bảo hiểm sức khỏe. Còn nó làm ở đây, tuy lương không cao, nhưng ổn định, vừa đủ sinh sống và chi phí cho việc học hành để thực hiện “giấc mơ Mỹ”.
Trước khi nhận việc, nó qua một tuần huấn luyện và câu châm ngôn “Customer First” (Khách hàng là trên hết) phải thuộc nằm lòng. Cho nên nó cố gắng học tiếng Việt để phục vụ tốt cho khách hàng Việt Nam. Nhưng oái oăm thay, tiếng Việt lắm nhiêu khê đã gây nguồn cơn lo lắng cho nó.
Hiểu được nỗi lo của bạn, Thịnh an ủi:
- Không sao đâu, nếu manager biết được chuyện này cũng thông cảm và biết đâu ổng còn khen mày có tinh thần cầu tiến trong việc tìm cách phục vụ tốt cho khách hàng. Cái lỗi là do tao dạy tiếng Việt cho mày chưa đến nơi đến chốn.
José bày tỏ:
- Thì khi nãy, tao nghe mày nói: “chào cô Tư” - trông bà ta vui ra mặt. Tao tưởng đó là lời chào “làm vui lòng khách”.
Thịnh suy nghĩ, giải thích cho José hiểu được cách xưng hô ở ngôi thứ hai trong tiếng Việt khó quá, nhưng cũng cố gắng giải thích:
- Cách xưng hô ngôi thứ hai của tiếng Việt rất phức tạp, không đơn giản như trong tiếng Anh: già, trẻ, gái, trai đều dùng tiếng “you”. Trong tiếng Việt thì có nhiều tiếng gọi sao cho phù hợp vai vế, giới tính và tuổi tác. Người lớn tuổi thì: ông, bà, chú, bác, cô, dì, anh chị… Người nhỏ tuổi hơn mình thì gọi là em - tiếng “em” dễ dùng nhất trong tiếng Việt, vì không phân biệt giới tính.
Nhưng tao lưu ý mày khi dùng tiếng “em” với những cô gái nhỏ tuổi chưa quen thân để tránh bị mắng hay bị tình nhân của cô ta cho ăn đòn. Mày phải thêm tiếng “cô” vào và nói: “cô em” mới phải phép. Mày hiểu rõ chưa?
Thằng José vừa cười vừa nói:
- Thiệt là điên cái đầu!
Thịnh chỉ thêm:
- Trong tiếng Việt, người ta còn dùng “nickname” để xác định một nhân vật có thói quen hay cá tính, hoặc tướng mạo đặc biệt khi nói về họ với lòng thương mến hay nhạo báng như: “Anh Ba Nhà Thờ”, “Ông Tám Dê”; “Cô Năm Điệu” ...
Thằng José để ý điều này.
Thứ Bảy tuần sau ông Tư trở lại. Khi bấm máy tính tiền và đưa vé số cho ông Tư, thằng José muốn lấy cảm tình, nó áp dụng ngay những điều học được:
- Chào “Ông Tư Vé Số”! Chúc may mắn…
Ông Tư cười vui vẻ, đáp lời:
- Hy vọng như thế!
Lần này ông Tư không tỏ vẻ nghiêm nghị mà nán lại vài phút nói chuyện với José.
Khi ông Tư ra khỏi tiệm, Thịnh nói với José:
- Tao dạy mày, nhưng chưa hết sách. Người ta chỉ dùng nickname khi nói vui với bạn bè cùng lứa tuổi đã có chung những kỷ niệm hoặc nhắc đến cái nickname để dễ nhớ ra một người bạn thân xa nhau lâu ngày. Không nên gọi cái nickname khi nói chuyện trực tiếp với họ. Khi nãy mày nói: “Chào Ông Tư Vé Số” là không phải cách.  “Ông Tư Vé Số” được coi là nickname của ông ta. Nhưng khi mày gọi cái nickname ấy, ông tỏ ra vui vẻ. Như thế là ổng khoái cái tên này. 
Từ đó, cái tên “Ông Tư Vé Số” được thằng José gọi mỗi khi thấy ông Tư vào tiệm. Và cũng từ đó, ông Tư nói chuyện thân mật với thằng José như đôi bạn vong niên tri kỷ.
Một hôm, thấy ông Tư vui, thằng José gợi chuyện:
- Sao ông Tư cứ mua vé số sau ngày xổ? Nếu đã có người trúng thì số tiền bắt đầu chỉ vài chục triệu, nhưng mua trước khi xổ một vài ngày, số người mua số tăng lên, khi trúng lô độc đắc có thể tăng lên năm, bảy chục triệu.
Ông Tư gật gù:
- Ta hiểu! Nhưng ta mua vé số là mua cái hy vọng - mua sau khi xổ số, ta có bảy ngày hy vọng. Còn mua vé số trước khi xổ một ngày, ta chỉ có 12 giờ hy vọng. Nhà ngươi hiểu ý của ta chưa?
Cả hai cùng cười….
Câu chuyện trên được Thịnh kể lại với gia đình trong bữa cơm chiều. Cha Thịnh ngồi nghe, cười tủm tỉm… rồi kể thêm chuyện đời của “Ông Tư Vé Số”:
- Ông ta mua vé số từ khi tụi bay còn để chởm kìa. Bây giờ ông ta “giả dạng thường dân”, chứ trước năm 1975, ông đã có “một thời vang bóng”- từng là một luật sư nổi tiếng ở Sài Gòn, rồi được bổ làm chánh án nhiều năm ở một tỉnh miền Trung dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa - một ông quan tòa công minh liêm chính được mọi người kính trọng.
Đến tháng Tư năm 1975, chính quyền Miền Nam sụp đổ, ông được chế độ Cộng sản “khoan hồng” nhờ cái phẩm hạnh đó, nên chỉ đưa ông vào trại “tập trung cải tạo” - đốn gỗ, chặt giang, kéo xe trâu trên núi rừng Việt Bắc trong vòng sáu năm - rồi thả cho về nhà. 
Sống ở Sài Gòn vài năm, dưới chế độ mới, người ta cai trị bằng “luật rừng”. Ông không chịu nổi trước cảnh bất công, ngang trái… nên năm 1984 ông tìm đường vượt biên và được định cư ở Mỹ. 
Sang đây, như con cá ở trong sông, hồ… bây giờ trôi ra đại dương bao la. Ông chới với! Trước đây, ông sống trong nước chỉ áp dụng “luật rừng”, bây giờ sang một xứ có cả một “rừng luật”- không biết đâu mà lần! Ông bỏ ước mơ đi làm thầy kiện! Tức là trở lại nghề luật sư.
Ông tính chuyển nghề - đi làm thợ! Nhưng than ôi! Sức lực đã để lại nơi núi rừng Việt Bắc. Hiện tại, chỉ còn tấm thân già nua, gầy yếu không làm nổi những công việc nặng nhọc khi làm thợ mộc, thợ nề; cũng không kham nổi lối làm việc dây chuyền trong nhà máy.
Những người như ông, người đời gọi là “thứ lỡ thầy lỡ thợ”! Nhưng ông không nản lòng vì đang được thở hít cái không khí tự do trên một xứ sở có nhiều cơ hội.
Một ngày đẹp trời, ông tìm ra cái nghề không có tên trong tự điển là “nghề cắt chỉ” - cắt chỉ trong các shop may - mỗi ngày lãnh được 20 đô la tiền mặt. Đủ để nuôi thân!  
Những buổi sáng, đứng đợi xe bus đi đến shop may, trời lạnh căm căm, ông ôm lon guigoz cơm còn chút hơi ấm mà bà vợ mới bới khi sáng, cho đỡ buốt đôi bàn tay.
Lúc đó, ông mơ: “Có được chiếc xe hơi, chạy vèo một mạch đến shop may cho đỡ lạnh cái thân già.”
Nhưng mỗi ngày chỉ kiếm được hai mươi đô la. Trong hai mươi đô la đó phải chi ra nhiều thứ cho con, cho vợ. Vậy thì biết đến bao giờ mới đủ tiền mua được chiếc xe?
Ông nghĩ: “May ra… chỉ khi nào trúng số!”
Thế là từ đó, mỗi tuần ông mua một tấm vé số Powerball.
Một năm trôi qua, tuy chưa trúng số, ông cũng gom góp mua được chiếc xe Toyota Corolla cũ - tuy cũ nhưng bộ phận điều hoà không khí còn tốt - trời lạnh bật “hít” (heat); trời nóng vặn “e” (air conditioning). Ông đi làm thoải mái bằng xe hơi - chẳng ngại nắng, mưa, nóng, lạnh…
Gần hai năm sau, ông xin được việc làm trong sở An sinh Xã hội. Lúc này tiền lương khá hơn, ông cảm thấy ở trong căn chung cư (apartment) chật chội mà mỗi tháng trả tiền thuê quá đắt. Ông mơ đến chuyện mua một căn nhà. Nhưng tiền lương mỗi tháng, sau khi trả tiền thuê nhà và mọi chi phí cho gia đình chỉ còn dư vài trăm đô la. Vậy biết đến bao giờ mới đủ tiền đặt cọc (down payment) để mua một căn nhà? Ông nghĩ: “May ra… chỉ khi nào trúng số!”
Thế là hằng tuần ông ra tiệm 7- Eleven mua một tấm vé số Powwerball. Nhưng bốn năm sau, tuy chưa trúng số, ông vẫn mua được một căn nhà vừa ý: rộng rãi, khang trang… có sân trước, vườn sau nhờ gom góp tiền để dành và tiền của vợ con kiếm được qua công việc làm bồi bàn của con, phụ bếp cho nhà hàng của vợ.
Mỗi buổi chiều đi làm về, ngồi dưới bóng cây mát rượi sau vườn, ông cảm thấy tâm hồn thư thái, bình an… Đã qua rồi những ngày âu lo, cơ cực cho bản thân và gia đình. Ông nghĩ, được như thế này là may mắn cho cuộc đời của một người tị nạn.
Những năm làm việc trong sở An sinh Xã hội, ông tiếp xúc với nhiều người tị nạn có hoàn cảnh khó khăn. Ông hết lòng giúp đỡ họ hoàn tất các thủ tục giấy tờ để sớm nhận được những trợ cấp của chính phủ Hoa Kỳ. Ông xem đây là một cách trả ơn cho đời.
Đối với những người tị nạn Việt Nam mới sang, ông luôn hỏi thăm tình trạng sinh sống của đồng bào mình ở bên nhà. Ông nghe kể những thảm cảnh ở nhà thương công: hai bệnh nhân nằm chung một giường vẫn không đủ chỗ, phải nằm dưới gầm giường hay nằm la liệt ngoài hành lang. Thuốc men, chữa trị thì những người có tiền, có “phong bì bôi trơn” được chiếu cố, còn dân nghèo thì “được chăng hay chớ…”
Ông Tư xúc động! Ông nhớ lại thời thơ ấu, sống trong vùng Liên Khu 5 do Việt Minh kiểm soát. Thuốc tây rất hiếm, khi đau bệnh người ta thường uống thuốc bắc hoặc dùng thuốc nam. Cha ông làm thầy thuốc bắc nổi tiếng. Dân chúng trong vùng gọi là ông Thầy Hai. Nhiều bệnh nhân ở xa đến ở trọ nhà ông, chờ cha ông bắt mạch, hốt thuốc. Còn thân nhân của họ ở tạm trong căn lều ngoài vườn. Họ sắc thuốc cho bệnh nhân uống tại chỗ. Chờ năm ba hôm, có khi cả tuần lễ, khi bệnh tình thuyên giảm mới đem nhau về nhà.
Những sự việc đó đã đi vào ký ức. Khi lớn lên, ông nhủ với lòng mình- khi có quyền thế hay tiền bạc, điều đầu tiên ông sẽ làm là xây nhiều bệnh viện phục vụ dân nghèo.
Khi được định cư ở Mỹ - ngày tháng trôi qua - năm năm, rồi mười năm… cho đến khi tuổi đời đi vào xế bóng mà ông vẫn không có quyền, cũng chẳng có tiền. Niềm ước mơ xây bệnh viện coi như xa vời.
Nhưng ông không nản lòng. Ông vẫn nuôi hy vọng - hy vọng trúng số độc đắc! Thế là ông tiếp tục mua vé số… Ông ước mơ:  khi trúng số độc đắc, ông sẽ xây một bệnh viện ngay ở quê nhà - đặt tên là “Bệnh Viện Thầy Hai” để tưởng nhớ người cha kính yêu và cứu giúp bà con trong xã, trong huyện…
Qua tuổi tám mươi, ông Tư vẫn chưa trúng số. Nhưng cái “bệnh tưởng” khiến ông nhiều đêm mất ngủ. Ông nghĩ một mai trúng số mà giao tiền cho bọn quan tham xây bệnh viện thì rách việc. Phải thành lập một ban cố vấn cho việc xây dựng và điều hành bệnh viện bởi những người bạn thân tín có bằng cấp chuyên môn, gồm: một kiến trúc sư, một luật sư, một bác sĩ và một người kế toán có bằng CPA.
Nhiều đêm thao thức, ông đã chọn đủ người. Nhưng rồi lần lượt hay tin ông bác sĩ quy tiên, ông kiến trúc sư mắc bệnh run tay (parkinson), ông luật sư thì mất trí nhớ (bệnh alzheimer), ông kế toán đã về Việt Nam theo bồ nhí. Thế là cái ban “Tham mưu, Cố vấn” coi như rã đám.
 
Một hôm tình cờ, Ông Tư đọc một truyện ngắn có tựa đề: “Trúng Số Độc Đắc” của nhà văn Tràm Cà Mau. Truyện kể rằng: “Vợ chồng nhà nọ mua một tấm vé số. Ngày xổ số chưa đến mà vợ chồng đã bàn tính với nhau sẽ cho bên chồng bao nhiêu, bên vợ bao nhiêu. Chị vợ kê một lô tên sẽ cho bên nhà mình và cắt tên những người bà không ưa bên nhà chồng và bắt anh chồng thề sẽ không cho những người bồ cũ của anh ta một xu. Anh chồng thấy bất công, tỏ vẻ không hài lòng. Thế là hai bên cãi nhau. Chị vợ khóc bù lu bù loa và đem những chuyện ngày xửa ngày xưa ra kể tội anh chồng và đòi ly dị. Anh chồng tức quá ra ngoài hút mấy điếu thuốc mới thấy tỉnh táo, rồi vào nhà nói với vợ: Em muốn ly dị thì OK, nhưng khi ra toà, ông quan tòa hỏi lý do gì mà xin ly dị thì trả lời làm sao cho ổn? Chẳng lẽ khai rằng: vì chia tiền không công bằng trên tấm vé số chưa xổ. Như thế người ta cười cho thối mũi…
Chị vợ ngước lên nhìn chồng, im lặng… và tỏ ra nhũn nhặn. Anh chồng thương hại, cúi xuống lau nước mắt cho vợ. Chị vợ cảm động, thốt lên: Thôi đừng mong trúng số độc đắc nữa!”
Đến đây ông Tư ngưng đọc, lẩm bẩm: “Vớ vẩn! Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng!” Rồi ông nghĩ lại những toan tính của mình đã làm nhiều đêm mất ngủ cũng vớ vẩn không khác gì chuyện hai vợ chồng nhà nọ.
Từ đó, vắng bóng Ông Tư ở tiệm 7- Eleven gần khu Phước Lộc Thọ vào những trưa thứ Bảy. Thịnh và José có ý mong chờ…
Khoảng ba tháng sau, cha của Thịnh cho hay tin: Ông Tư đã vào Viện dưỡng lão. Ông không còn uớc mơ trúng số độc đắc mà chỉ mong khi chết được khoác chiếc áo jacket lính rằn ri và đội cái mũ beret màu xanh đậm mà người bạn tâm giao đã tặng ông, trước khi anh ta đi vào chiến trường An Lộc.
 Nếu không có hai câu thơ:
An Lộc địa sử ghi chiến tích/ Biệt Kích Dù vị quốc vong thân”* của một cô giáo trẻ ở Bình Long vinh danh sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù với những trận thư hùng oanh liệt ở Thị xã An Lộc đã được ghi vào Quân sử Việt Nam Cộng Hòa, thì nhiều người sẽ không biết đến địa danh này.
Gần sáu mươi năm trôi qua, người bạn tâm giao đã nằm lại với An Lộc kiêu hùng. Còn ông Tư đã trải qua bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống, ông vẫn giữ chiếc jacket lính rằn ri với cái mũ bê rê màu xanh đậm mà người bạn tâm giao đã tặng. Ông coi đó như là hai kỷ vật thân thương của ông.
Bây giờ, ông chỉ còn một ước mong - khi lìa bỏ nhân gian, đi vào cõi vĩnh hằng, xin người đời nhớ cho hai kỷ vật này được theo ông về với đất…
 
Lê Đức Luận
(Tháng 4 -2025)
 
*Cô giáo tên Pha - dạy Tiểu học ở một trường trong thị xã An Lộc.
   
 
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                               
 
     
     
 
      
 
 
 
     
 
       
 
 

Send comment
Off
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Your Name
Your email address
)
Add a posting
Total View: 210,534
Miếng ăn là miếng tồi tàn Mất đi một miếng lộn gan lên đầu. Câu nói dân gian trên chắc có lẽ chỉ được áp dụng tại Việt Nam hay những nước chậm tiến trong những năm tháng nghèo đói. Ăn uống là nhu cầu sống còn của con người và vì thế người ta nhiều khi phải đánh mất phẩm giá của mình để tồn tại. Tuy vậy, tôi thấy câu này vẫn có thể áp dụng tại Mỹ, đất nước giàu có nhất thế giới và đồ ăn thì dư thừa.
Một cô bé Mỹ lai Việt, khoảng 12-13 tuổi với mái tóc dài ngang vai quăn tự nhiên, ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt nâu tròn to, vai đeo một ba lô khá nặng so với thân hình mảnh khảnh của mình, hai tay ôm một em bé còn rất nhỏ chừng hai, ba tháng tuổi, cô bé đứng trong đuôi người nối dài xếp hàng ở trước cửa ngân hàng Bank of America, trên đường Harbor, Garden Grove, California chờ đến lượt mình. Những người đứng chờ phía trước thấy cô bé có con nhỏ bèn nhường chỗ để cô bé được tiếp sớm hơn, ai cũng tò mò nghiêng người nhìn vào bên trong lớp vải quấn đứa trẻ xem thử đứa bé ấy là con gái hay con trai, lớn nhỏ ra sao, có bà người Mỹ đứng sát bên lên tiếng: - Chắc cháu bé mới hơn hai tháng phải không? Còn nhỏ quá bế ra đây làm gì? - Sao không để nhà cho mẹ cháu giữ nó? Khuôn mặt của cô bé một chút ngỡ ngàng, lo lắng nhìn xung quanh không biết phải trả lời ra sao, chỉ yên lặng cúi nhìn đứa trẻ đang say giấc trong tấm khăn hồng êm ấm.
Ngôi nhà nằm ở một vùng ngoại ô, khuất sau những tàng cây cổ thụ, phủ đầy rêu phong và ký ức. Mỗi viên gạch, mỗi góc tường, đều như đang thì thầm câu chuyện về một gia đình đã từng hạnh phúc, ấm êm. Ông Lâm, với mái tóc bạc phơ như sương tuyết và dáng người gầy gò, liêu xiêu theo năm tháng, ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế mây cũ ở hiên nhà. Chiều tà buông xuống, nhuộm tím cả khoảng sân, mang theo hơi lạnh se sắt của cơn gió trở mùa, lay lắt những cánh hoa đỗ quyên đỏ thắm trước ngõ, như ngọn lửa nhỏ đang cố gắng níu giữ hơi ấm sắp tàn lụi. Mỗi cơn gió đi qua, ông Lâm lại khẽ rùng mình, không phải vì lạnh, mà vì nỗi cô đơn quạnh quẽ đang bám riết lấy ông từ hai năm nay. Từ ngày người vợ yêu quý của ông về với đất.
Mùa Hạ đã bắt đầu báo hiệu, các loài hoa thi đua nở đủ màu sắc tươi vui. Anh Quang bước ra sân theo tiếng gọi của vợ nhờ bưng phụ mấy chậu hoa quỳnh lên bệ cao, vì muốn ngắm nét đẹp của loài hoa trang đài đang nở hàng chục đóa hồng và vàng. Bé LiLy bước chân cao chân thấp đi theo cha cười hồn nhiên.
Có những người Cha tôi đã gặp Hiến dâng đời, phục vụ tha nhân Sáng danh Chúa, sống Phúc Âm Gieo lời Chân Lý xa gần nơi nơi … (KL) Đó là những vị linh mục mà tôi đã có dịp tiếp xúc trong thời gian bốn năm sống ở trại tỵ nạn Thái Lan. Nói về các Cha thời tỵ nạn thì có rất nhiều điều muốn nói, nhưng có nói thêm trăm ngàn lời cũng vẫn chưa đủ. Ở trại, chúng tôi may mắn có được các Cha người Việt Nam (cũng là nguời tỵ nạn vượt biên). Các Ngài là những người khởi đầu lập nên nhà thờ đơn sơ đầu tiên nơi trại cấm Panatnikhom, viết tắt là Panat, (gọi là Trại Cấm vì chúng tôi là những thuyền/bộ nhân đến trại tỵ nạn sau ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa không nhận người tỵ nạn, nên chúng tôi bị xem là bất hợp pháp, phải ở Trại Cấm chờ nước sở tại thanh lọc, xét duyệt tư cách tỵ nạn).
Trải qua bao thời gian, những người bạn cũ rời xa, những người bạn mới xuất hiện, nhiều khuôn mặt đến, rồi đi, như nước chảy qua cầu. Vậy mà có một khuôn mặt đặc biệt, ở lại rất lâu trong góc trái tim tôi, một nhỏ bạn thật đặc biệt. Đặc biệt, là vì nó là... người Nga. Tôi đã từng có ác cảm với dân tộc Nga, từ những ngày trước năm 1975, là năm đổi đời, đổi hướng tương lai của đa số dân tỵ nạn cộng sản. Ác cảm là vì, giống dân từ một quốc gia xa lạ và rất xa trên bản đồ trái đất, đầu tiên tạo ra chế độ Cộng sản, lại đầu độc cả thế giới qua cái chủ nghĩa Cộng sản ác nhân thất đức.
Thưa anh Don, tôi biết hương hồn anh đang hiện diện quanh quất đâu đây, trong khán phòng này và nghe được những lời tôi nói. Cảm ơn anh đã luôn là người hàng xóm tốt bụng. Anh thường xuyên cắt cỏ cho khoảng sân trước nhà chúng tôi khi cắt cho nhà anh. Không chỉ cắt thôi đâu quý vị, anh còn tỉa rồi thổi bằng máy thổi sạch bóng, từ sát cửa ra vào đến sân xe chạy. Lần nọ, nhà chúng tôi bị bể ống nước, ngập lụt ngoài phòng khách lên tận mắt cá, anh là vị cứu tinh đã khóa nước trước khi chồng tôi kịp về nhà. Bao lần chúng tôi quên đóng cửa “garage” qua đêm, anh luôn nhắn tin cho tôi “Cửa garage nhà chị còn mở đó nhe.” Tôi cảm thấy rất hổ thẹn vì chưa mời anh được một bữa ăn Việt Nam! Tệ thật! Tôi có mua biếu anh hộp bánh vào dịp Noel mấy năm nhưng nhìn lại thấy không đủ so với những gì anh đã làm cho gia đình tôi! Nhưng tôi vĩnh viễn không còn dịp nữa rồi!
Hàng năm, cứ qua giữa tháng Năm là nước Mỹ lại bắt đầu rộn ràng hơn cho ngày lễ hội Memorial Day sắp tới! Các “florist centers” lo chuẩn bị thêm nhiều hoa để cung cấp cho người tiêu thụ, những gian hàng đồ lưu niệm bày biện lắm thứ hơn để bán. Walmart, Krogers tấp nập khách hàng vì có đông người đi chợ cho các tiệc tùng ăn uống chiều hôm đó. Như chúng ta biết, ngày lễ này được long trọng tổ chức vào mỗi thứ Hai cuối cùng của tháng Năm nhằm vinh danh những người lính đã xả thân hy sinh trong quân đội Hoa Kỳ. Ngược dòng lịch sử và theo các sử gia thì cuộc nội chiến Mỹ được xem là có nhiều người chết nhất nên những nghĩa trang thành hình từ đấy. Vào mấy năm cuối của thập niên 1860 thì ở nhiều quận, hạt, tỉnh, thành, thiên hạ bắt đầu tới sửa sang, dọn dẹp vệ sinh cho những ngôi mộ của người thân mình, mang theo bông hoa trang hoàng cho các ngôi mộ đó; những chiến binh đã nằm xuống!
Là con trai trưởng trong một gia đình có chín anh em, tôi sống với Mẹ trong hầu hết bảy mươi bốn năm đời mình. Chỉ có hai lần tôi phải xa Mẹ lâu nhất, mỗi lần tám năm, đều liên quan đến nước Mỹ và Mẹ. Lần thứ nhất từ năm 1991 khi Mẹ đi tỵ nạn Hoa Kỳ theo diện H.O. Tôi kẹt lại quê nhà cho đến cuối năm 1998 mới đi đoàn tụ gia đình theo diện ODP. Đi hay ở, một quyêt định không phải dể dàng với tôi lúc bấy giờ. Những năm chín mươi sau những tháng năm sống vất vả, cay đắng và tủi nhục để kiếm sống và tồn tại, đứa con một sĩ quan tù cải tạo, nhờ thời kỳ mở cửa, các công ty nước ngoài lần lượt vào Việt Nam, tôi được làm việc cho văn phòng đại diện công ty Hoa Kỳ AMP tại Việt Nam. Mức lương 700 USD của một giám đốc kỹ thuật hồi đó là một con số rất lớn nếu so với đồng lương 50 USD của một kỹ sư mới ra trường.
Cũng như bao đứa con trai khác, hồi bé tôi mơ ước được đi máy bay. Vì lớn lên ở Việt Nam sau 1975, mơ ước đó xem ra khó thành hiện thực. Thế rồi khi tôi 18 tuổi, giấc mơ ấy đã đến khi tôi leo lên chiếc máy bay TU134 của Liên xô tại phi trường Tân Sơn Nhất để đi định cư ở Mỹ theo diện bảo lãnh, như đã kể trong bài viết dự thi Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của tôi vào năm 2002. Ở Mỹ trên 30 năm, tôi đi máy bay tương đối cũng khá nhiều và cũng có nhiều kinh nghiệm lý thú để hôm nay kể cho quý vị thưởng thức.
Nhạc sĩ Cung Tiến