Tác giả từng nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, đã sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm, hiện là cư dân Dayton, Ohio.
***
“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi”
(Chinh Phụ Ngâm-Đặng Trần Côn)
Hàng năm, cứ qua giữa tháng Năm là nước Mỹ lại bắt đầu rộn ràng hơn cho ngày lễ hội Memorial Day sắp tới!
Các “florist centers” lo chuẩn bị thêm nhiều hoa để cung cấp cho người tiêu thụ, những gian hàng đồ lưu niệm bày biện lắm thứ hơn để bán. Walmart, Krogers tấp nập khách hàng vì có đông người đi chợ cho các tiệc tùng ăn uống chiều hôm đó.
Như chúng ta biết, ngày lễ này được long trọng tổ chức vào mỗi thứ Hai cuối cùng của tháng Năm nhằm vinh danh những người lính đã xả thân hy sinh trong quân đội Hoa Kỳ.
Ngược dòng lịch sử và theo các sử gia thì cuộc nội chiến Mỹ được xem là có nhiều người chết nhất nên những nghĩa trang thành hình từ đấy. Vào mấy năm cuối của thập niên 1860 thì ở nhiều quận, hạt, tỉnh, thành, thiên hạ bắt đầu tới sửa sang, dọn dẹp vệ sinh cho những ngôi mộ của người thân mình, mang theo bông hoa trang hoàng cho các ngôi mộ đó; những chiến binh đã nằm xuống!
Không ai rõ Memorial Day (Lễ Tưởng Niệm) này bắt đầu từ lúc nào và nguồn gốc chính xác của nó ra sao? Tuy nhiên theo tài liệu ghi nhận thì có lẽ chừng gần một tháng sau, khi liên quân miền Nam đầu hàng năm 1865 thì nó được khởi đi từ các nhóm nô lệ người da đen ở thành phố Charleston của tiểu bang South Carolina.
Nhưng Ngày 05 tháng Năm, 1866, tại Waterloo ở tiểu bang New York là nơi đầu tiên bắt đầu tổ chức hằng năm trên quy mô lớn như một sự kiện với phạm vi rộng rãi của cộng đồng khi người dân đóng cửa mọi hoạt động thương mại để mang hoa tới trang trí cho những mộ phần của tử sĩ và cắm cờ vinh danh người nằm xuống.
Trong sự phát triển dần dần ấy thì Ngày 05 tháng Năm, 1868, tướng John Logan, người đứng đầu “Đại quân của nền Cộng Hòa quân đội miền Bắc” đã chính thức công bố ngày Lễ Tưởng Niệm như là một ngày Lễ Trang Hoàng để đem hoa và cờ tới cắm trên những mộ phần của các tử sĩ để tưởng nhớ sự hy sinh của họ!
Năm 1873, New York là tiểu bang thứ nhất được chính quyền của tiểu bang thừa nhận Memorial Day là ngày nghỉ lễ của tiểu bang. Tới 1890 thì hầu hết mọi tiểu bang ở miền Bắc công nhận lễ này, tuy nhiên ở miền Nam vẫn còn nhiều tiểu bang tổ chức tưởng niệm vào các thời gian khác nhau vì vấn đề nô lệ chủng tộc!
Sau Đệ Nhất Thế Chiến thì ý nghĩa của ngày lễ này được mở rộng ra hơn nhằm tôn vinh tất cả các quân nhân của Mỹ đã hy sinh trong bất cứ cuộc chiến tranh nào để bảo vệ tự do, hòa bình, dân chủ trên thế giới.
Tuy vậy mãi đến năm 1971, khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua “National Holiday Act” và chọn ngày Thứ Hai cuối cùng của Tháng Năm làm ngày lễ chính thức của liên bang thì ngày này trở thành ngày Lễ Tưởng Niệm Chiến Sĩ Trận Vong trên toàn quốc để đi viếng nghĩa trang, đài tưởng niệm, treo cờ rũ cho tới trưa theo giờ địa phương nhằm hồi tưởng về các quân nhân đã tử nạn trong quân đội!
Từ lý do đó, ngày nay ngoài các sinh hoạt kể trên, Memorial Day còn là một ngày lễ của “long weekend” vì vào chiều thứ sáu sau khi làm việc xong thì có nhiều gia đình đã đi chơi xa sang những tiểu bang khác cho tới chiều thứ hai mới trở về để chuẩn bị đi làm lại ngày hôm sau, tạo thêm một hoạt động vui chơi khác trong dịp này.
Như lệ thường, ngay từ sáng sớm ngày Thứ Hai cuối cùng của Tháng Năm, khi trời còn tỏa hơi sương lành lạnh, mờ nhân ảnh ấy thì tôi đã tới một nghĩa trang gần nhà, để tham dự Lễ Tưởng Niệm.
Tại đây đã có rất nhiều lá quốc kỳ nho nhỏ của Mỹ bay nhè nhẹ trong gió sớm, những bó hoa còn tươi nguyên được đặt ngay ngắn trên từng mộ phần người quá vãng từ hôm trước. Không lâu sau, xe cộ lũ lượt chạy vô con đường làng nhỏ hẹp, chẳng mấy chốc đã đậu kín hai bên đường. Nhiều gia đình với đủ nam, phụ, lão, ấu được cha mẹ chúng dẫn theo lần vào nghĩa trang nơi có thân nhân của mình đang an nghỉ tại đó để thăm viếng trong niềm nhớ thương mất mát.
Rồi một chiếc xe buýt lớn chở đầy các ông già, bà lão trờ tới và dừng ngay cổng chính của nghĩa trang. Bước xuống xe, trong quân phục của đủ các binh chủng với huân chương được gắn đầy trên ngực áo; đó là những cựu chiến binh của chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam…mà tôi có thể nhận ra nhờ hàng chữ ghi trên mấy chiếc nón họ đang đội. Đặc biệt còn có cả một cựu quân nhân thời Đệ Nhị Thế Chiến ngồi xe lăn cũng được người ta đẩy tới tham dự.
Buổi lễ này do chính quyền thành phố phối hợp với Hội Cựu Chiến Binh Mỹ tổ chức. Đúng chín giờ, một toán nghi thức tiến vào, một vị đại diện lên diễn đàn mời các cựu chiến binh tới vị trí hành lễ đơn sơ ngoài trời để bắt đầu buổi lễ. Một số quan khách bước lại gần, tụ tập bên những người lính già bước đi khập khiễng, mệt mỏi theo thời gian nhưng vẫn hăng hái trở về để tưởng nhớ đồng đội đã ngã xuống của mình!
Vị diễn giả mở đầu bài nói chuyện bằng cách nhắc lại lịch sử và ý nghĩa của Memorial Day. Kể lể những gian khổ mất mát, hy sinh gia đình, bản thân, cả tới sinh mạng để phụng sự quê hương của người lính cho tới nỗi đớn đau của nhiều gia đình hiện nay còn phải âm thầm chịu đựng vì sự mất tích của người thân trên các chiến trường vẫn chưa tìm được tung tích!
Sau phần vinh danh, và tri ân những cựu chiến binh Mỹ đã nằm lại trong các cuộc chiến tranh vì bảo vệ hòa bình, tự do, cho nhân loại trên khắp thế giới là phút mặc niệm để tưởng nhớ tới anh linh của các anh hùng đã tử trận nơi sa trường.
Dưới tàng cây to, giữa không gian im ắng, mọi người yên lặng cúi đầu mơ về quá khứ với ánh mắt xa xăm. Đứng lẫn trong dòng người đông đảo, tôi nghe lòng ai oán, não nùng lúc tiếng kèn trầm bổng cất lên. Ôi, đau đớn làm sao, buồn vương nỗi sầu!
Nắng lên khá cao, những tia nắng xuyên qua cành lá rớt nhè nhẹ lên bãi cỏ như ve vuốt. Các hoa nắng hờ hững rơi trên những bia đá lạnh, nằm im lìm rồi di chuyển chậm dần như thì thầm an ủi, âu yếm người đã khuất. Buổi lễ chấm dứt sau chừng độ một tiếng đồng hồ. Người có thân nhân ở đây thì nán lại viếng mộ, số khác lặng lẽ ra về. Tôi bước lửng thửng ra xe!
Trên đường đi, dư âm của buổi lễ vẫn còn trong tâm trí, hình ảnh của mấy vị cựu quân nhân già đi lựng chựng khiến tôi chợt nhớ tới vợ chồng vị cựu chiến binh tới tiệm tôi cách đây mấy tháng.
… Khoảng ba bốn giờ chiều một hôm, lúc tiệm vắng khách thì có đôi vợ chồng người Mỹ bước vô. Ông bà cũng khá lớn tuổi, tôi đoán chừng họ cũng xấp xỉ tám mươi chớ không ít! Trông cả hai khá yếu ớt vì dáng bà mảnh mai nhưng sang cả với mái tóc bạch kim còn ông thì gầy ốm và phải chống gậy!
Bà muốn làm “manicure.” Sau khi chào hỏi xã giao, tôi nói bà đi rửa tay và mời ông ngồi xuống chiếc ghế cạnh bên, đoạn sửa soạn mọi thứ. Lúc bà làm vệ sinh xong trở lại thì tôi cũng đã sẵn sàng và chỉ chiếc ghế trước mặt tôi mời bà an vị. Trong khi làm việc, tôi bắt chuyện cho khách vui, thỉnh thoảng tôi ngước lên nhìn bà thì mới để ý là bà còn có nhiều nét đẹp, ngày xưa chắc cũng là một mỹ nhân diễm lệ không chừng.
Lâu lâu tôi lại quay qua ông nói đôi điều cho ông không cảm thấy trống trải, lúc ấy tôi nhận ra ông có lẽ là một cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam vì ông đội cái mũ lưỡi trai có in hàng chữ “Vietnam Veteran” trên đó. Bà thì dịu dàng, giọng thỏ thẻ như oanh vàng đang hót còn ông thì cũng rất nhẹ nhàng, nói chậm rãi như sương rơi nhưng là do sức khỏe yếu ớt!
Xong việc, bà phải ngồi chừng mười lăm phút để hơ tay cho móng khô vì bà chọn nước sơn thường! Đảo mắt ngó quanh thấy tiệm cũng thưa thớt khách, bà bắt chuyện, hỏi tôi người ở đâu? đến đây bằng cách nào.v.v..?
Lúc biết tôi là người Việt tị nạn, từng ở tù khá lâu vì vượt biên thất bại và chôn đời trong nhiều năm ở trại tị nạn do trại đóng cửa, bà “ồ” một tiếng lớn và quay qua ông. Bấy giờ tôi ngó sang ông hỏi khẽ ông có phải là cựu chiến binh Việt Nam không thì bà gật đầu vì ông chẳng nghe được. Đoạn bà nghiêng người sang ông nói nhỏ với ông rằng tôi cũng là người Việt Nam thì thấy cái miệng móm mém của ộng mấp máy, đầu gật gù như đã hiểu và nhìn tôi cười. Nụ cười của ông rất dễ thương!
Thấy vậy tôi buột miệng hỏi:
- When were you in Vietnam, sir? (Ông đã ở Việt Nam lúc nào, thưa ông?)
Nghe hỏi mình, ông nhích người lên nhướng mày ý chừng như chưa nghe rõ. Bà bèn lặp lại giúp tôi. Ông đáp:
- 1968.
- How long have you been there? (Ông đã ở đó bao lâu?)
- Two years! (Hai năm!)
- Where have you been in my country? (Ông đã ở chỗ nào trên quê hương tôi?)
- Central region! (Miền Trung!)
Ngẫm nghĩ giây lát như sực nhớ ra một điều khá quan trọng, tôi tiếp:
- How old were you at that time? (Khi ấy ông bao nhiêu tuổi?)
- Twenty! I was twenty years old when I went there. (Hai mươi. Tôi tới đó lúc hai mươi tuổi).
Trả lời xong, ông yên lặng, trở về với bản tính cố hữu của mình. Bà lên tiếng, phá tan sự im lìm, nói nho nhỏ với tôi như không muốn cho ông nghe rằng ông bị thương trong chiến tranh và được đưa về Mỹ chữa trị. Lành bịnh ông được giải ngũ, ông gặp bà khi ông bị PTSD (Post-traumatic stress disorder.)
Thấy ông bị bịnh và bị xã hội thời ấy ruồng bỏ, bà tội nghiệp ông. Từ thương hại cảm thông tới tình yêu, thương thật ông tự lúc nào bà không biết để cuối cùng bà chấp nhận lập gia đình với ông vì ngoài những lúc cơn bịnh phát tác ra thì ông rất hiền!
Nghe bà nói tự dưng tôi cũng cảm thấy xót xa, thương cho số phận của một con người từ rất xa xôi bỗng mang bịnh tật bởi đất nước mình nên tôi khẽ liếc sang ông và thấy ông nhỏ thó, ngồi bất động, tay phải mân mê đầu gậy, đôi mắt nhìn xa xăm vào cõi không như vô hồn, như đang nghĩ về các chiến hữu của mình đã ngã xuống trong cuộc chiến bởi tôi biết dù bà có thì thầm nhỏ mấy ông vẫn nghe được vì đó là giọng nói thân thương đã ở với ông suốt mấy mươi năm nên lâu lâu ông lại nhìn bà như chờ đợi điều gì ở nơi bà.
Bỗng nhiên da mặt ông co rúm lại xanh mét, bàn tay trái nắm chặt và thân hình giật giật nghiêng sang một bên như sắp ngã. Ông chợt đứng bật dậy, loạng choạng! Tôi hốt hoảng, nắm lấy tay bà bóp nhẹ như ra hiệu bà đừng nói nữa và ngó sang ông. Bà vội quay qua ông cựu binh, rồi nhẹ nhàng nắm lấy cánh tay ông kéo ông ngồi xuống, thủ thỉ:
- Are you OK, honey? (Anh yêu, anh bình thường chứ?)
Nghe tiếng bà, gương mặt ông giản ra, một đổi sau từ từ hồng lên rồi dịu lại dần. Tôi thở phào nhẹ nhõm và để cho bầu không khí bớt nặng nề nên tôi không dám hỏi tiếp mà quay sang đề tài khác vui vẻ hơn:
- Did you have any Vietnamese girlfriend there? (Ông có bất kỳ người bạn gái Việt Nam nào ở đó lúc ấy không?)
Ông lại ngước mặt, nhướng mắt to lên, không hiểu. Bà thì thào vào tai ông. Người chiến binh già chợt giãy nãy, lắc đầu quầy quậy, gương mặt mắc cỡ của ông trông rất buồn cười:
- No, no! (Không, không!)
Nhìn bà cười, ánh mắt ngó ông trìu mến, tôi tin lời bà nói ngày xưa bà thương ông là thật. Còn chuyện tại sao bà lại thương một người bịnh tật thì tôi không biết vì như chính bà đã thú nhận bà còn không biết thì sao tôi biết được? Chuyện tình yêu thì có những cái không lý giải được?
Đột nhiên ông hỏi bà gì đó mà tôi không nghe được vì giọng ông nhỏ và lắp bắp quá. Bà đưa mắt nhìn tôi và nói với ông những gì tôi vừa thuật với bà. Nghe xong ông chép miệng. Bất chợt ông giơ bàn tay trái ra nắm chặt lấy tay tôi nói:
- I am really sorry to let you be in a hard situation! (Tôi thành thật xin lỗi đã để anh lâm cảnh ngặt nghèo!)
Cổ họng tôi nghẹn lại trước lời lẽ chân thành bất ngờ của ông mà không nói nên lời, mãi vài phút sau tôi mới bừng tỉnh đứng dậy vịn vai ông:
- Thank you for your service to my country, sir! (Thưa ông, xin cám ơn sự phục vụ của ông cho đất nước tôi!)
Ông bỗng thò tay vào túi quần móc ra một vật đưa tôi nhưng tay ông run run làm nó rơi xuống đất lăn dài. Tội vội vã chạy theo lượm nó lên đưa lại ông. Ông khoát tay từ chối bảo:
- I give it to you! (Tặng anh!)
Nhìn xuống tối thấy đó là một vật to tròn bằng đồng, lớn gấp đôi đồng bạc thường với hai chữ “Purple Heart” ở trên, chính giữa có hình một người da đỏ bên dưới có chữ “Medal” và các ngôi sao viền quanh. Lật ra mặt sau tôi thấy có thêm chữ “Combat Wounded” khiến tôi sửng sốt, bởi đó là huân chương danh giá của Hoa Kỳ dành cho những người bị thương trong chiến tranh. Sao bây giờ ông lại cho tôi?
Tôi lắc đầu:
- No, it’s yours! (Không, cái này là của ông!)
Vợ ông cũng ngạc nhiên, đứng lên bước lại gần ông, cúi xuống hỏi:
- You give it to him, don't you? (Anh cho anh ta, phải không?)
Ông gật đầu.
- But why do you want to give it to me? It's yours, sir. (Nhưng tại sao ông lại muốn cho tôi? Nó là của ông mà, thưa ông.)
- It is not true. I keep the true medal at home. This one is only a gift but I want to give it to you from my heart! (Nó không phải là cái thật. Tôi giữ cái huân chương thật ở nhà. Cái này chỉ là quà nhưng tôi muốn biếu nó cho anh bằng tấm lòng của tôi!)
Tôi xúc động đứng lặng người không biết nói gì. Vợ ông đẩy tay tôi đang cầm cái huân chương trở lại gật đầu cười nhẹ:
- Keep it! (Hãy giữ đi!)
Lúc ông bà rời đi, tôi ngó theo cái dáng xiêu vẹo, nghiêng ngả bước khập khiễng không vững của ông với cây gậy mà cảm khái thở dài, lòng bùi ngùi bâng khuâng, thương cho người thương phế binh vì đất nước tôi mà tàn tật mang theo di chứng bên mình cả đời, kẻ khác lại bỏ mạng. Còn nỗi buồn nào hơn?
Nhờ họ hy sinh mà bây giờ chúng ta mới có tự do, sống yên bình hạnh phúc. Memorial Day thật sự là một ngày lễ vô cùng quan trọng, đầy ý nghĩa! Chúng ta phải nhớ ơn họ!
Triều Phong
OH, ngày 28 tháng 05, 2025
Viết cho những mùa Memorial Day.
Gửi ý kiến của bạn